Lược sử Giáo họ biệt lập Gò Chung

 



GIÁO HỌ BIỆT LẬP GÒ CHUNG
Bổn mạng: Đức Mẹ đi viếng Bà Elisabeth (31.5)



I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ – THIÊN NHIÊN - NHÂN VĂN

Giáo họ Gò Chung bao gồm xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Xã An Dân hiện nay gồm các thôn: An Thổ, Bình Chính, Bình Hòa, Cần Lương, Long Uyên, Mỹ Long và Phú Mỹ. Nhà thờ Gò Chung tọa lạc tại phía tây đầu đập Tam Giang, thuộc thôn Bình Hòa.(Địa danh thôn xã... được viết trong bài này trước ngày 01.07.2025. Sau ngày 01.07.2025, thị trấn Chí Thạnh, xã An Dân, xã An Định thuộc xã Tuy An Bắc, tỉnh Đắk Lắk. )

Đến nhà thờ Gò Chung có các con đường:

* Đường ôtô (tối đa xe 07 chỗ), xe máy:

- Phía Bắc cầu Ngân Sơn trên Quộc lộ I, theo đường bê tông nông thôn về hướng Đông, đến nhà thờ khoảng 1200m.
- Phía Nam cầu Nhân Mỹ trên Quốc lộ I, theo đường bê tông nông thôn về hướng Đông, đến nhà thờ khoảng 2000m.

* Đường đi bộ: Phía Nam cầu Ngân Sơn khoảng 600m, hoặc nếu từ Nam ra Bắc cách ngã ba Chí Thạnh 2 Km, gặp trụ cây số 1301, tại tiệm vàng Ngọc Cẩm đối diện Chùa Cảnh Phước, theo đường ĐH 31 (đường đi Nhà thờ Mằng Lăng, đi Đá Đĩa) khoảng 1300m, đến đập Tam Giang, đi bộ trên bờ đập (mùa khô) khoảng 800m đến nhà thờ.

Xã An Dân nguyên là vùng đất thuộc vùng Bà Đài (châu thổ sông Cái), một trong bốn vùng đất được chúa Nguyễn Hoàng ra công lệnh vào ngày mồng 6 tháng 2 năm Đinh Sửu (1597), giao cho Lương Văn Chánh chiêu dân từ huyện Tuy Viễn[1] vào khai khẩn đất hoang. Công lệnh viết:“… Bảo cho Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh… sức số dân khách hộ đưa đến các xứ Cù Mông, Bà Đài, Bà Diễn, Bà Nông, trên từ nguồn Di dưới tới cửa biển, kết lập địa phận gia cư khai khẩn ruộng đất hoang tới khi thành thục, nạp thuế như lệ thường...”. [2]

Địa bàn xã An Dân có Quốc lộ I đi qua từ phía Bắc cầu Ngân Sơn đến Bắc dốc Vườn Xoài, ngoài ra đâylà một vùng đất được sông nước bao bọc. Sông Cái (sông Kỳ Lộ) chảy từ thôn Mỹ Long ở phía Tây xã An Dân đến cầu Ngân Sơn dọc phía Nam thôn Phú Mỹ, chảy đến phía Đông xã An Dân gồm các thôn: Bình Hòa, An Thổ, Long Uyên. Ngoài ra sau khi dời lỵ sở Dinh Trấn Biên (Thành Cũ) từ Bình Thạnh đến Long Uyên (An Thổ),[3] năm 1838, vua Minh Mạng chuẩn y lời tâu tỉnh thành Phú Yên, vua cho khai đào một con sông khởi nguồn từ Sông Cái ở địa phận thôn Mỹ Long, chảy theo hướng Đông - Bắc cùng hướng với sông Cái, chảy qua các thôn Bình Hòa, An Thổ, Bình Chính, Cần Lương, nhập vào dòng sông Cái tại sông Bình Bá,[4] thôn Bình Thạnh xã An Ninh Tây rồi ra cửa biển Tiên Châu. Con sông nầy còn được gọi là sông Con, sông Nhân Mỹ hay sông Vét, dài khoảng 4.368m. Ngày nay trên đường Quốc lộ I có cầu Nhân Mỹ, phía Bắc cầu Ngân Sơn khoảng 750m.

Trong tiến trình thành lập, chia tách địa bàn hành chánh theo các thời kỳ lịch sử từ khi được xác lập địa bạ, phần đất xã An Dân ngày nay vào thời điểm 1815-1829 có thôn Cần Lương thuộc Tổng Xuân Đài, thôn An Mỹ (Phú Mỹ) và Long Uyên thuộc Tổng Xuân Sơn. Thời điểm 1832-1898, Phú Mỹ, Long Uyên, Cần Lương thuộc Tổng Hạ của huyện Đồng Xuân. Thời điểm 1899-1945, Phú Mỹ, Long Uyên, An Thổ, Cần Lương thuộc Tổng An Sơn của Phủ Tuy An.[5]

Trong giai đoạn 1945-1958, Phú Yên được cải cách hành chánh, cách gọi phủ, tổng… bị bãi bỏ. Theo đó, dùng cách gọi tỉnh, quận, xã, thôn. Năm 1950, xã An Dân được thành lập, thuộc quận Tuy An, gồm các thôn: An Thổ, Bình Chính, Bình Hòa, Cần Lương, Long Uyên, Mỹ Long và Phú Mỹ.[6] Các thôn nầy tồn tại cho đến ngày nay.

Năm 1836, vua Minh Mạng cho dời lỵ sở Dinh Trấn Biên Phú Yên (Thành Cũ) từ thôn Hội Phú (vị trí nay thuộc Bình Thạnh, An Ninh Tây) đến Long Uyên.[7] Theo nhà sử học Nguyễn Đình Đầu trong tác phẩm "Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn Phú Yên” thì Long Uyên có nghĩa là “hưng thịnh, sâu xa”. Cụ Phạm Đình Khiêm trong sách “Người chứng thứ nhất” cho rằng: Long Uyên có nghĩa là “Vực Rồng”.Theo ông Đinh Nho Quang, quan Bố chánh Phú Yên thì:“…toàn tỉnh Phú Yên thắng cảnh, núi sông không đâu bằng Long Uyên”.[8]

Về lý do di dời thành An Thổ:

- Sách Đại Nam thực lục ghi: “Năm Minh Mạng thứ 17 (1836) dời tỉnh thành Phú Yên ra chỗ khác (ở địa phận thôn Long Uyên, huyện Đồng Xuân, cách lỵ sở cũ 560 trượng... Lỵ sở cũ ở Sa Đôi, phía Đông thì gần sông Bình Bá, phía Bắc thì núi Xuân Đài gần kề rủ xuống, không phải là chỗ đất đẹp, nên sai dời đi”.[9]

- Sách Minh Mệnh chính yếu: Minh Mạng năm thứ 17 (1836), quan tỉnh Phú Yên tâu nói: "Tỉnh ấy nguyên ở chỗ bãi cát, không những là đắp thành không được bền vững, lại không phải là nơi dùng làm việc võ bị, vua chọn đất khác xây đắp thành mới, quan tỉnh xin di về đất Long Uyên, ở huyện Đồng Xuân. Vua sai quan Tông đốc Vũ Xuân Cẩn đi xem lại cũng tâu lại là địa thế của tỉnh ấy không đâu hơn đất Long Uyên mới chuẩn cho thi hành”[10]

Năm 1899, Long Uyên được chia thành hai thôn Long Uyên và An Thổ thuộc tổng An Sơn phủ Tuy An. Theo sự phân chia nầy, thành mới tọa lạc tại thôn An Thổ. Do đó, ngày nay gọi là thành An Thổ. Các tài liệu cũ định vị thành mới tại thôn Long Uyên như vừa nêu trên. Cả hai cách định vị đều đúng theo thời điểm lịch sử.

Long Uyên một thời còn được gọi là “đất học”. Thời Tự Đức tại Phú Yên có hai trường dạy chữ Nho: Một ở Long Uyên và một ở Đông Phước, Tuy Hòa.[11] Trải qua các khoa thi, có 4 người con đất Long Uyên đậu bản vàng:[12]

- Nguyễn Bá Côn, khoa thi năm 1894.
- Lê Huỳnh Lưu, khoa thi năm 1908.
- Bùi Cạnh, khoa thi năm 1915
- Lê Huỳnh Hà, con Lê Huỳnh Lưu, khoa thi năm 1918.

Hiện nay trên địa bàn xã An Dân, ngoài di tích thành An Thổ còn có các di tích tôn giáo và văn hóa vật thể:

- Chùa Đá Trắng: Còn gọi là Chùa Từ Quang, Bạch Thạch Từ Quang Tự. Chùa được Hòa thượng Pháp Chuyên (Diệu Nghiêm) xây dựng từ năm 1797. Ngôi chùa tọa lạc ở triền dãy núi Xuân Đài tại vị trí đầu Nam dốc Vườn Xoài, thuộc thôn Cần Lương, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Triền núi nầy có nhiều đá trắng, thổ nhưỡng hợp với xoài nên xoài mang hương vị thơm ngon đặc biệt, xoài đã từng được dùng tiến vua nên còn gọi là xoài tiến, xoài ngự.[13]

Rủ lên Đá Trắng ăn xoài
Muốn ăn tương ngọt Thiên Thai thiếu gì .

- Miếu thờ Vua Lê Thánh Tông, Văn miếu và Miếu hội đồng tại thôn Long Uyên. Cả 3 di tích này nằm liền kề nhau, có diện tích rộng hơn 7.185m2. Hiện nay cả 3 di tích này chỉ còn là phế tích.[14]

- Chợ Thành: ở phía Nam thành An Thổ, gần cửa Hữu,mỗi tháng chợ họp 6 phiên vào các ngày 4, 9, 14, 19, 24, 29 âm lịch. Đặc sản của chợ phiên Thành là món bún bắp được dân làng ưa chuộng.[15]

II. HẠT GIỐNG TIN MỪNG NẨY MẦM VÀ PHÁT TRIỂN

Tin Mừng được đưa đến vùng đất “chảy sửa và mật” một thời ở xã An Dân ngày nay từ khi nào? Thật khó xác định chính xác mốc điểm của vấn đề.

Lần theo tiến trình lịch sử việc khẩn hoang lập làng của người Việt trên vùng đất châu thổ sông Bà Đài, vùng đất có khí hậu hiền hòa, dễ bắt con cua con cá, trồng được lúa nước. Dinh Trấn biên Phú Yên được thành lập tại vùng châu thổ nầy vào năm 1629. Xét những điều kiện nầy, có thể vùng đất xã An Dân ngày nay là vùng “đất vàng” được các di dân ưu tiên chọn lựa định cư.

Năm 1620, vùng đất Phú Yên (Ran-ran) thuộc vùng truyền giáo của các thừa sai dòng Tên tại Cư sở Nước Mặn (Poulocambi).[16] Báo cáo hằng năm của các thừa sai dòng Tên do cha Gaspar Luis viết tại Cư sở Nước Mặn vào ngày 01.01.1626 về hoạt động truyền giáo năm 1625, có nói đến một số người được Rửa tội trong đó có một vị Sãi ở Phú Yên tuyên bố tin nhận những tín điều trong giáo lý trước khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội.[17]

Trong 9 tháng đầu năm 1629, các thừa sai dòng Tên rửa tội tại Phú Yên 320 người. Trong số đó có một người đàn ông danh giá đã từng làm Thư ký cho Trấn thủ Phú Yên đã qua đời. Cùng với ông ta là một trăm hai mươi người trong gia tộc của ông, và tiếp ngay sau đó là những người dân trong vùng.[18]

Năm 1636, vợ Quan Trấn biên Phú Yên là Ngọc Liên công chúa, trưởng nữ của chúa Sãi, sau khi lãnh nhận bí tích rửa tội với tên thánh Maria-Mađalêna, bà lập một nhà nguyện ngay trong lỵ sở Dinh Trấn Biên, hằng ngày nhiều giáo hữu đến đây tham gia việc bác ái và truyền giáo làm cho nhiều người nhận biết Thiên Chúa.[19]

Năm 1639, ở Đàng Trong không còn bóng dáng các thừa sai vì lệnh trục xuất của chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan. Để một giáo đoàn còn non trẻ thiếu vắng sự chăm sóc mục vụ là nỗi lo của các thừa sai. Cha Đắc Lộ đang ở Macao là người được chọn để tìm cách vào Đàng Trong. Nhờ các chuyến tàu buôn của người Bồ, cha Đắc Lộ ra vào Đàng Trong 4 lần: Lần 1 từ tháng 2-1640 đến tháng 8-1640; lần 2 (12.1640 - 7.1641); lần 3 (1.1642 đến 9.1643); lần 4(01.1644 đến 12.1645).

Vào ngày 31.3.1641, cha Đắc Lộ đến cửa biển Bà Đài.[20] Cha được Quan Trấn Biên Phú Yên tiếp đón và ở lại trong dinh 4 ngày, cha dạy giáo lý và đã rửa tội cho 90 người tại nhà nguyện trong dinh Trấn.[21]

Xét hoàn cảnh sự hiện diện của cha Đắc Lộ tại lỵ sở Dinh Trấn Biên vào thời điểm chúa Nguyễn có lệnh trục xuất các thừa sai, Cụ Phạm Đình Khiêm đã viết: “ Xét vì cuộc viếng thăm của giáo sĩ chỉ thâu hẹp trong các làng phụ cận lỵ sở Dinh Trấn Biên, mà phương tiện truyền tin và giao thông thời ấy lại rất hạn chế, người ta có lý do để tin rằng những giáo hữu tân tòng kia không phải từ ở nơi xa đến, mà chính là những người ở ngay chỗ trấn lỵ và phụ cận”. [22]

Từ những gì đã nêu trên, có thể nói nhóm giáo hữu đầu tiên ở vùng đất châu thổ sông Bà Đài (Sông Cái) nói chung và cách riêng vùng đất xã An Dân ngày nay thuộc thành phần một số quan viên dinh trấn, những di dân đến lập nghiệp ở vùng nầy đã được lãnh nhận Bí tích Rửa tội từ các nhà truyền giáo Dòng Tên.

Theo tường thuật của cha Đắc Lộ, tình trạng giáo dân Phú Yên sống đức tin không được thuận lợi dưới quyền cai trị của vị Quan Trấn Biên mới được bổ nhiệm đến thay thế cho Phó tướng Nguyễn Phúc Vinh, Quan Trấn Biên Phú Yên (1629-1644).[23]

Vì tình trạng thiếu vắng các linh mục và tình hình xã hội biến chuyển, do đó giáo đoàn non trẻ vùng châu thổ sông Bà Đài nói chung và vùng đất xã An Dân ngày nay nói riêng khó phát triển trong một thời gian khá dài.

Trong thống kê của các thừa sai Paris năm 1747, Phú Yên có 6 nhà thờ và 67 nhà nguyện của các họ đạo liên hệ, trong đó Chợ Mới là nhà thờ chính trong vùng, là trú sở của các thừa sai, gồm 21 giáo điểm.[24] Trong đó họ đạo Lò Giấy hay Gò Chung, và ngay cả Mằng Lăng cũng chưa thấy có trong thống kê nầy.

Trong báo cáo năm 1850 của Đức cha Stêphanô Thể gởi cho Hội Thừa Sai Paris, trong có họ đạo Lò Giấy 303 giáo dân (thôn Long Uyên), thuộc hàng thứ ba trong số 21 họ đạo thuộc xứ Bắc Phú Yên.[25] Như thế Lò Giấy là một họ đạo được thành lập sau năm 1747 và trước năm 1850.

Trong thời vua Tự Đức cấm đạo, tại Lò Giấy có chú Giuse Nguyễn Văn Nghiêm theo giúp Đức cha Stêphanô Thể, chú cùng bị bắt với Đức cha tại nhà bà Lưu và chịu chết (bị chém) vì Đạo tại Gò Chàm, Bình Định vào ngày 21 tháng 02 năm Tự Đức thứ 15 (21.03.1862).[26] Cùng quê Lò Giấy có thầy Phêrô Nguyễn Văn Quờn đã lãnh bốn chức nhỏ, chịu tử đạo ngày 02 tháng 3 năm Tự Đức thứ 15 (01.04.1862) tại Gò Chàm với hình án giảo quyết (chịu siết cổ).[27] Ngày 13.12.1918, Đức Giáo hoàng Bênêdictô XV ký sắc ghi danh các Đấng vào hàng Tôi Tớ Chúa.[28]

Sau hơn 20 năm Lò Giấy có hai người con chịu tử đạo, năm 1885, phong trào Văn Thân ở Phú Yên khởi động với khẩu hiệu “Bình Tây – Sát Tả”. Tỉnh đường Long Uyên là mục tiêu hàng đầu của Văn Thân Phú Yên. Giữa tháng 9 năm 1885, với sự cộng tác của Văn Thân Bình Định, Văn Thân Phú Yên tấn công tỉnh đường Long Uyên. Cuộc tấn công “Bình Tây-Sát Tả” nầy làm cho họ đạo Lò Giấy cách riêng và các họ đạo khác trong vùng cùng chịu cảnh tang thương. Tục truyền, các tín hữu Lò Giấy bị Văn Thân sát hại được chôn cất trong một ngôi mộ tập thể. Ngày 04.9.2020, cha Phêrô Trương Minh Thái, cha sở Mằng Lăng, đã xây mộ và lập bia. Ngôi mộ tập thể nầy tọa lạc tại xóm Trường, thôn Bình Hòa, xã An Dân.

Sau Văn Thân, các họ đạo dần dần được phục hồi. Thống kê năm 1940 của Địa phận Qui Nhơn, địa bàn xã An Dân ngày nay có họ đạo Gò Chung 186 giáo dân, họ đạo Lò Giấy 96 giáo dân, cả hai họ đạo thuộc địa sở Mằng Lăng.[29]

Tên gọi Lò Giấy hay Gò Chung là tên gọi được tìm thấy trong lịch sử truyền giáo của giáo phận, dường như là tên gọi thuần túy của “nhà đạo”. Theo lời truyền tụng, tên gọi Gò Chung phát xuất từ ngôi mộ tập thể chôn cất các tín hữu bị Văn Thân sát hại.

Nhà thờ Gò Chung được cha Giacôbê Lê Kim Dung, cha sở Mằng Lăng (1928 - 1944) xây dựng. Cha Giacôbê cũng xây một nhà vuông tại Gò Chung. Vị trí ngôi nhà nầy tọa lạc phía sau hang đá Đức Mẹ. Trong chiến tranh (1965-1975) ngôi nhà vuông đã bị sập. Để mở rộng khuôn viên nhà thờ Gò Chung khi xây dựng nhà thờ hiện nay, hang đá Đức Mẹ đã được di dời.

Vào năm 1958, trong chuyến khảo sát “đi tìm thành cổ Dinh Trấn Biên”, cụ Phạm Đình Khiêm cho biết lúc bấy giờ có ngôi nhà thờ họ đạo Lò Giấy tại Long Uyên, mái được lợp tranh.[30] Nhà thờ nầy bị sập trong chiến tranh, ngày nay chỉ còn nền.

Sau khi hòa bình vãn hồi, một số giáo dân hồi cư về Lò Giấy và Gò Chung. Tại Lò Giấy chỉ có một vài gia đình giáo dân thưa thớt, trong số đó có ông Biện Đờn kiên trì lội qua sông đi lễ Chúa nhật hằng tuần tại Mằng Lăng. Tại Gò Chung, bà con đông hơn, đường đến Mằng Lăng tương đối thuận lợi hơn Lò Giấy.

Khi mới hồi cư về Gò Chung, một số chức việc cốt cán như Biện Dư, Biện Thật, Biện Đến, Biện Tới làm đầu tàu qui tụ bà con sống đạo.Trong thời bao cấp có quý thầy ở Mằng Lăng đến Gò Chung dạy giáo lý, tập hát cho các em vào một đêm trong tuần, chiều Chúa nhật dạy giáo lý và chia sẻ Lời Chúa cho thanh niên. Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Xuân Văn, cha sở Mằng Lăng (1975-1986), cha Giacôbê Nguyễn Thánh Tri, cha sở Mằng Lăng (1986-1992) về làm lễ Bổn mạng và làm phước lệ mỗi mùa Chay và mùa Vọng. Từ thời cha Phêrô Bùi Huy Bích, cha sở Mằng Lăng (1992-1997) đến các cha sở kế nhiệm, ngoài Thánh lễ Bổn mạng còn có Thánh lễ hằng tháng. Hằng ngày, bà con tụ họp đọc kinh tối.

Khi bà con hồi cư về Gò Chung, nhà thờđã bị sập mái, chỉ còn vách, mái nhà thờ được cha Phaolô Trương Đắc Cần cho lợp lại bằng kèo tre và tôn hột mè,[31] dù tôn mới nhưng mỏng manh. Trận bão năm 1982 đã hốt hết mái tôn. Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Xuân Văn cho làm lại bằng kèo gỗ, lợp ngói với mè tre.[32] Thời cha Phêrô Bùi Huy Bích, cha sở Mằng Lăng (1992-1997), nhà thờ được tu sửa, các cửa được làm bằng gỗ thay cho cửa tôn, mặt tiền được nâng cao, thay mè tre bằng mè gỗ.

Năm 1998, bà Đào, nguyên quán Gò Chung, có chồng ở Mỹ, đã tài trợ xây dựng đường điện 3 pha từ một trạm ở thôn Phú Mỹ về Gò Chung, khoảng 1200m. Nhờ đường điện nầy, bà con ở xóm Gò Chung và nhà thờ có ánh sáng điện thay cho ánh đèn dầu leo lét.

Cha Phêrô Trương Minh Thái, cha sở kiêm Hạt trưởng Mằng Lăng, rất lưu tâm đến mọi sinh hoạt của giáo họ Gò Chung và bà con giáo dân. Cha đến dâng thánh lễ hàng tuần tại nhà thờ Gò Chung, quy tụ thường xuyên từ 70 đến 100 người dự lễ. Trước đây lễ bổn mạng giáo họ vào lễ Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội, ngày 08 tháng 12 thường bị mưa gió, bão lụt. Được sự đồng thuận của bà con giáo dân, cha sở đã chọn ngày lễ Đức Mẹ đi viếng bà Elisabeth (31/5) làm lễ bổn mạng giáo họ Gò Chung.

Cha ưu ái chăm sóc đời sống của người dân trong vùng, đặc biệt những người có hoàn cảnh khó khăn, không phân biệt lương giáo: xây dựng nhiều căn nhà tình thương, hỗ trợ bê-tông đường, thắp sáng nhiều đoạn đường và nước sạch đến các gia đình, hỗ trợ học bổng cho học sinh nghèo, cứu trợ cho người dân khi gặp thiên tai, dịch bệnh ; chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho bệnh nhân nghèo….

Nhờ sự giúp đỡ của chính quyền và ban quản lý đập Tam Giang, cha Phêrô Trương Minh Thái mở rộng khuôn viên nhà thờ (từ 750m2 thành gần 1.450m2), làm đường bê-tông dọc bờ đập cho dân đi lại, xây bờ móng san lấp mặt bằng, xây dựng tường rào bao bọc… Nhờ gia đình anh Antôn Trương Công Tiên (con ông Biện Tới) đã hiến một phần đất phía sau và bên hông nhà thờ(# 50m2), cha Thái mở rộng khuôn viên nhà thờ Gò Chung, tiếp tục xây bờ kè móng, san lấp mặt bằng, xây dựng tường rào bao bọc… Được bà Macta Nguyễn Thị Mai và con cái đã hiến 500m2 đất giáp ranh nhà thờ (cha sở xây dựng ngôi nhà mới tặng lại cho bà Mai trên phần đất còn lại của bà). Hiện nay tổng diện tích đất nhà thờ Gò Chung gần 2.000m2.

Nhờ sự giúp đỡ đặc biệt của gia đình ông bà Phaolô Trương Công Nguyên, Maria Lê Thị Ngọc Yến và các con ở thành phố Tuy Hòa, với sự hy sinh tài trợ toàn bộ công trình nhà thờ, ngày 20 tháng 6 năm 2022, cha Phêrô Trương Minh Thái khởi công xây dựng nhà thờ Gò Chung mới, theo kiến trúc gothic cách tân, với diện tích 325m2, tháp chuông cao 25 mét, hơn 3 lần diện tích nhà thờ cũ. Công trình xây dựng do kiến trúc sư Phêrô Trần Như Nhất Nguyên, Giám đốc công ty Kiến trúc T-House thiết kế miễn phí và đồng hành giám sát. Sau gần 2 năm thi công, nhà thờ Gò Chung đã được hoàn thành. Gần đây, giấy tờ sổ hồng thửa đất bà Nguyễn Thị Mai hiến đã sang tên cha sở xong, cha cho xây dựng nhà xứ với diện tích gần 120m2; cha cũng xây dựng đài Đức Mẹ trên phần đất của gia đình anh Antôn Trương Công Tiên hiến.

Ngày 20 tháng 6 năm 2024, đúng 2 năm sau ngày khởi công xây dựng nhà thờ Gò Chung, giáo họ Gò Chung và giáo xứ Mằng Lăng hân hoan đón chào Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi, Giám mục Giáo phận Qui Nhơn, đến chủ tế Thánh lễ Tạ ơn Chúa – làm phép khánh thánh Nhà thờ Gò Chung, với sự hiện diện của cha Tổng đại diện Giuse Trương Đình Hiền, quý cha, quý tu sĩ, quý ân nhân và quý khách.

Tháng 11 năm 2024, cha Phêrô Trương Minh Thái được bổ nhiệm làm cha sở giáo xứ Sông Hinh kiêm hạt trưởng Tuy Hòa và cha Phêrô Võ Thanh Nhàn được bổ nhiệm làm cha sở kiêm hạt trưởng Mằng Lăng, đồng thời cha Phaolô Nguyễn Thành Tấn được đưa về làm phó xứ Mằng Lăng, nhưng biệt cư tại nhà thờ Gò Chung.

Ngày 11 tháng 10 năm 2025, Đức cha Matthêô ký văn thư thành lập giáo họ biệt lập Gò Chung tách ra từ giáo xứ Mằng Lăng và văn thư bổ nhiệm cha Giuse Lê Quốc Thịnh làm cha quản nhiệm. Sáng ngày 14 tháng 10, Đức cha Matthêô về nhà thờ Gò Chung chủ sự thánh lễ và công bố hai văn thư trên.

Hiện nay, giáo họ biệt lập Gò Chung có 320 giáo dân, với 96 gia đình, phần đông sống quy tụ gần nhà thờ tại xóm Gò Chung, thôn Bình Hòa, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.


[1]Tuy Viễn là một trong ba huyện thuộc phủ Hoài Nhơn được vua Lê Thánh Tôn thành lập năm 1471: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Trong đó, địa bàn Tuy Viễn rộng lớn hơn Bồng Sơn và Phù Ly rất nhiều.Tuy Viễn lúc nầy là vùng địa đầu biên viễn của Đại Việt. Năm 1578, Lương Văn Chánh được bổ làm tri huyện Tuy Viễn, do đó giữ chức vụ Trấn An Biên. Theo công lệnh 1597, Cù Mông là vùng Nam đèo Cù Mông cho tới Sông Cầu. Bà Đài là vùng châu thổ Sông Cái, nay gồm các xã An Dân, thị trấn Chí Thạnh, An Thạch, An Cư, An Ninh Đông, An Ninh Tây. Bà Diển là vùng châu thổ sông Đà Rằng (Sông Ba). Bà Nông là vùng châu thổ sông Đà Nông (sông Bàn Thạch).
[2] Xem Trần Sĩ Huệ, Phú Yên thời khẩn hoang lập làng, nxb. Nông Nghiệp, Tp. HCM. 2007, trang 37.
[3]Theo Cụ Phạm Đình Khiêm khảo sát năm 1959 thì lỵ sở Dinh Trấn Biên thuộc thôn Hội Phú, xã An Ninh. Theo Th.S. Nguyễn Thị Ngọc Hiệp khảo sát năm 2015 thì lỵ sở Dinh Trấn Biên thuộc thôn Bình Thạnh, xã An Ninh Tây. Cả hai đều được ghi nhận theo thời điểm lịch sử.
[4] Tại đây có cầu gỗ dài khoảng hơn 400m gọi là cầu Ông Cọp (gần miếu Ông Cọp, khu phố Bình Thạnh, phường Xuân Đài, thị xã Sông Cầu). Cầu nối liền đôi bờ (Quốc lộ I với các thôn xã bên tả ngạn sông Cái, gần nhất là các thôn của xã An Ninh Tây), dành cho người đi bộ, xe đạp và xe máy. Cầu được khởi công năm 1998 bằng những ván gỗ thô sơ, đưa vào sử dụng năm 1999, qua cầu có thu phí.
[5] Xem Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn Phú Yên, Tp. HCM, 1997, trang 76-77, 82, 129.
[6] UBND tỉnh Phú Yên, Địa chí Phú Yên, Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2003, trang 775-776.
[7] Đây là tỉnh lỵ của tỉnh Phú Yên từ năm 1836.Năm 1888, lỵ sở của Phú Yên được dời từ Long Uyên ra Vũng Lắm. Ở đây trong khoảng 1 năm rồi lại chuyển về An Thổ. Đến năm 1899, lỵ sở Phú Yên lại dời từ An Thổ về tại thôn Long Bình (nay thuộc khu phố Long Bình, phường Xuân Phú, thị xã Sông Cầu). Từ năm 1899 trở đi, thành An Thổ tiếp tục đảm nhận vai trò là phủ lỵ của phủ Tuy An. Đến khoảng năm 1939, phủ lỵ Tuy An chuyển đến vị trí khác thì thành An Thổ xem như đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình.
[8] Xem Trần Sĩ Huệ, Sđd, trang 208-210.
[9] QSQTN, Đại Nam Thực lục, tập 19, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 1968, trang 175.
[10]QSQTN, Minh Mệnh Chính yếu, tập 3, nxb. Thuận Hóa 1994, trang 257-258.
[11]QSQTN, Đại Nam Nhất Thống Chí, Tập 3, Thuận Hóa, Huế 2006, trang 77.
[12] Cao Xuân Dục, Quốc Triều Hương Khoa lục, nxb. Lao Động, 2011, tìm theo “Bảng tra theo nhân danh”.
[13] QSQTN, Đại Nam Nhất Thống Chí, Sđd, trang 82.
[14]Theo cuộc Hội thảo do UBND huyện Tuy An tổ chức ngày 20.10.2022 về di tích lịch sử, miếu thờ Vua Lê Thánh Tông, Văn miếu (thờ Khổng Tử), miếu hội đồng (thờ Thành Hoàng, Tiền hiền, Hậu hiền) được cư dân thôn Long Uyên tạo lập khoảng năm 1857. Theo UBND tỉnh Phú Yên, Văn Miếu được khởi công xây dựng mùa Thu năm Quí Mùi (1823) và khánh thành năm Ất Dậu (1825). (xem UBND tỉnh Phú Yên, Di tích Văn hóa thành An Thổ, 2011, trang 17). Đại Nam Nhất Thống Chí (bản thời Tự Đức) không ghi các miếu nầy tại Long Uyên, chỉ ghi miếu Hội đồng, miếu Thành hoàng đều ở xã Xuân Đài. (Tập 3, Thuận Hóa, Huế 2006, trang 90). Cũng theo sách nầy ở mục Chùa Quán ghi “Chùa Từ Quang ở xã Xuân Đài, phía Bắc huyện Đồng Xuân, đầu đời Gia Long Hòa thượng Diệu Nghiêm trụ trì ở đây” (trang 93).
[15] Ngày trước, bún bắp được nhiều người làm. Nguyên liệu là bắp tẻ, để cho ra bún phải mất nhiều công đoạn. Nay chỉ còn một hai gia đình biết nghề. Ai muốn dùng, phải đặt hàng.
[16]Xem Daniello Bartoli, Dell' Istoria della Compagnia di Gesù, Torino 1825, vol. 18, terza parte, libro quarto, tr. 60.
[17]Xem Gaspar Luis, Cocincinae Missionis Annuae Litteae, Anni 1625… ARSI, Jap-sin 71, fol. 56r-71r.
[18]Xem Daniello Bartoli, sđd, tr. 215.
[19]Xem Phạm Đình Khiêm, Người Chứng Thứ Nhất, Tinh Việt Văn Đoàn, Sài Gòn 1959, trang 51
[20] Cửa biển Tiên Châu, vịnh Xuân Đài, An Ninh Tây ngày nay.
[21] Cardim, Antonio Francisco, S. J.Relation de ce qui s'est passé depuis quelques années jusqu’à l'an 1644 au Japon, à la Cochinchine,... de la Compagnie de ...Paris 1646, trang 112.
[22]Phạm Đình Khiêm, Sđd, trang 40.
[23]Xem Alexandre de Rhodes, Les Voyages et Missions …, Paris 1854, trang 194-195
[24]Adrien Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823, T.II, Paris 2000, trang 191-192.
[25]Mission de Quinhơn, Mémorial no. 58, 31 Oct. 1909, trang 152
[26] Về ngày tháng chịu tử đạo, Mémorial Mission de Qui Nhơn ghi theo ngày tháng đời Vua. Trong hồ sơ của Tòa Thánh ghi theo ngày tháng dương lịch. Cách tính từ năm Vua cai trị chuyển sang năm dương lịch có một số tài liệu không thống nhất là do cách tính của mỗi người.
[27] Mission de Quinhơn, Mémorial No. 51, 29.3.1909, trang 86– 87 .
[28]Mission de Quinhon, Mémorial No. 148, 20 Mars 1919, trang 20-25.
[29]Mission de Quinhon, Mémorial Sept-Oct. 1940, trang 3-9.
[30]Phạm Đình Khiêm, Sđd, trang 42.
[31]Sau 30.4.1975, bà con giáo dân tạm cư ở Phú Tân cùng với cha sở Mằng Lăng trở về Mằng Lăng nên nhà thờ tạm nầy không còn sinh hoạt. Nhà nước huyện Tuy An đổi nhà thờ tạm ở Phú Tân bằng 100 tấm tôn hột mè còn nguyên đai nguyên kiện. Số tôn này được dùng tái thiết nhà thờ Gò Chung và nhà thờ Hội Tín .
[32] Kèo gỗ nầy nguyên của nhà thờ Phú Nhuận, được hạ giải đem về lưu giữ ở Mằng Lăng.


Tác giả: Lm. Gioan Võ Đình Đệ - Lm. Phêrô Trương Minh Thái
Mới hơn Cũ hơn
DÒNG NỮ TỲ CHÚA GIÊSU TÌNH THƯƠNG