Tác giả: Lm Xuân Hy Vọng
THÔNG ĐIỆP
TẤT CẢ LÀ ANH CHỊ EM (FRATELLI TUTTI)
của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô
về TÌNH MẾN ĐỆ HUYNH và TÌNH BẠN XÃ HỘI
“Tất cả là Anh chị em” (Fratelli Tutti) [1]. Thánh Phan-xi-cô Át-si-zi nói những lời này với anh chị em của ngài, cũng như đề xuất cho họ một lối sống đầy hương vị Phúc Âm. Nhờ lời khuyên răn của thánh nhân, tôi muốn chọn lời ngài mời gọi cho tình bác ái mà nó vượt lên các giới hạn địa lý cũng như khoảng cách, và khẳng khái công bố ơn lành cho những ai yêu mến anh chị em mình “nhiều đến nỗi khi cách xa mà vẫn cảm thấy như đang kề bên” [2]. Với lối nói đơn sơ nhưng trực diện này, Thánh Phan-xi-cô đã lột tả bản chất của sự cởi mở huynh đệ mà nó cho phép chúng ta thừa nhận, cảm kích và yêu thương mỗi người, bất luận tương đồng thể lý, hay nơi mà họ ra đời hoặc sinh sống.
Chính tình mến huynh đệ, lòng đơn sơ cũng như niềm vui của thánh nhân đã tạo nguồn cảm hứng cho tôi biên soạn Thông điệp Laudato Si’, và một lần nữa gợi hứng cho tôi hiến trọn Thông điệp mới này cho tình mến đệ huynh và tình hữu nghị xã hội. Thánh Phan-xi-cô cảm nhận mình là anh em của mặt trời, biển cả và gió, nhưng ngài cũng biết rõ mình gần gũi hơn với chúng như thể xác thịt mình. Bất kể đến đâu, thánh nhân luôn gieo những hạt giống bình an, và đồng hành với người nghèo, với ai bị bỏ rơi, với người yếu đau, người bị loại ra ngoài, những người mọn hèn nhất trong số anh chị em của ngài.
KHÔNG BIÊN GIỚI
Có một tình tiết trong đời của Thánh Phan-xi-cô cho thấy sự cởi mở tâm hồn của ngài, mà nó được biết tới như vô hạn và vượt lên những khác biệt về nguồn gốc, quốc tịch, màu da hay tôn giáo. Đó là lần ngài viếng thăm Sultan Malik-el-Kamil, tại Ai Cập. Cuộc thăm viếng này đã đẩy ngài vào nguy khó, nghèo khổ, nguồn sống cạn kiệt, chặng đường hành trình quá xa xôi, phải đối diện với sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hoá và tôn giáo. Nhưng chuyến đi vào thời Thánh chiến ấy tỏ lộ tình yêu của ngài ngày càng sâu rộng lớn lao và luôn tìm kiếm để ôm trọn mọi người. Lòng tín trung đối với Chúa của Thánh Phan-xi-cô cũng ngang tầm với tình mến mà ngài dành cho anh chị em. Chẳng bận tâm đến những nỗi gian nan, hiểm nguy, thánh nhân đến gặp gỡ Sultan với cùng một thái độ mà ngài hằng truyền lại cho môn đệ mình: nếu như họ tự nhận là những người “thuộc nhóm Saracen hay vô thần khác”, thì họ không nên “tham dự vào các cuộc tranh biện hay tranh chấp”, cũng chẳng cần chối bỏ căn tính riêng, “nhưng vì ý Chúa, họ phải lệ thuộc vào mọi loài thọ tạo” [3]. Trong bối cảnh thời đại, đây là một đề xuất lạ thường. Chúng ta ấn tượng rằng kể từ khoảng 800 năm, Thánh Phan-xi-cô thúc giục nên tránh xa mọi hình thức thù nghịch hay mâu thuẫn, và sống “lời đề xuất” khiêm hạ, yêu thương trong tình đệ huynh với những ai không chia sẻ cùng đức tin.
Thánh nhân không phát động khẩu chiến nhắm tới áp đặt những tín lý, mà chỉ truyền bá tình yêu Thiên Chúa, bởi lẽ ngài hiểu rõ “Thiên Chúa là tình yêu, và những ai sống trong tình yêu thì sẽ sống trong Người” (1Ga 4, 16). Nhờ vậy, ngài trở thành người cha hiền của mọi người, và mang lại nguồn cảm hứng cho tầm nhìn của xã hội đệ huynh. Quả thật, “chỉ ai đến gần với tha nhân, chứ không xa lánh họ trong đời, mới giúp họ trở nên chính mình trọn vẹn hơn, và sẽ thực sự được gọi là người cha” [4]. Trong thế giới thời ấy, đầy dẫy tháp canh và tường thành phòng ngự được dựng lên, còn thành thị là rạp chiếu phim của những trận chiến tàn bạo giữa các gia đình quyền lực, ngay cả sự đói nghèo trải rộng khắp vùng quê. Tuy nhiên, thánh Phan-xi-cô vẫn ân cần tiếp nhận bình an nơi tâm hồn, và tự giải thoát bản thân khỏi tham vọng nắm giữ uy quyền cai trị người khác. Ngài đã trở thành người nghèo trong số họ, và luôn nỗ lực tìm cách sống hoà nhã với tất cả. Thật vậy, chính Thánh Phan-xi-cô đã gợi hứng cho tôi viết lên những trang này.
Các vấn đề về tình huynh đệ giữa con người cũng như tình hữu nghị xã hội luôn luôn là mối quan tâm của tôi. Gần đây nhất, tôi đã lặp đi lặp lại, và trình bày ở nhiều khung cảnh khác nhau. Tuy nhiên, trong Thông điệp này, tôi muốn tập hợp và đưa chúng vào một bối cảnh suy tư rộng lớn hơn. Khi chuẩn bị viết Thông điệp Laudato Si’, tôi đã lấy nguồn cảm hứng từ người hiền huynh của tôi, Đức Thượng Phụ Chính Thống giáo Bar-tô-lô-mê-ô, người đã mạnh mẽ đề cập đến nhu cầu chăm sóc mọi loài thọ tạo. Hơn nữa, lúc ấy, tôi được Vị Imam Đáng kính Ahmad Al-Tayyeb khích lệ đặc biệt, người mà tôi đã gặp tại Abu Dhabi, nơi đó chúng tôi cùng tuyên bố “Thiên Chúa đã tạo dựng mọi người bình đẳng về nghĩa vụ, trách nhiệm, phẩm giá, và kêu mời họ sống với nhau như anh chị em” [5]. Đây không đơn thuần là cử chỉ ngoại giao, mà là một suy tư được ra đời từ tinh thần đối thoại và cam kết chung. Vì vậy, Thông điệp hiện tại này sẽ đề cập và triển khai một số chủ đề lớn lao mà đã được nêu ra trong Tài liệu chúng tôi cùng nhau ký kết. Với tư tưởng cá nhân, tôi cũng sẽ kết hợp nhiều tông thư, văn kiện cũng như những đánh giá mà tôi nhận được từ không ít cá nhân và các nhóm trên toàn thế giới.
Phần trình bày sau đây không nhằm đưa ra một giáo thuyết toàn vẹn về tình huynh đệ, nhưng đúng hơn cân nhắc phạm vi phổ quát, và tính rộng mở của nó dành cho mọi người, nam cũng như nữ. Tôi xin mến tặng Thông điệp xã hội này như một sự đóng góp nhỏ bé cho những suy tư tiếp diễn, với hy vọng rằng khi đối mặt với mọi nỗ lực loại bỏ hay phớt lờ người khác thời nay, chúng ta có thể chứng tỏ khả năng đáp ứng dựa trên tầm nhìn mới mẻ của tình hữu nghị xã hội và lòng mến đệ huynh mà không chỉ ở mãi cấp độ ngôn từ. Tuy tôi viết từ niềm xác tín Ki-tô giáo mà đã linh hứng và dưỡng nuôi tôi, nhưng tôi xin dành suy tư này như một lời mời gọi đối thoại giữa toàn thể mọi người đầy thiện chí.
Khi tôi đặt bút viết tâm thư này, đại dịch Cô-vi-19 bất ngờ bùng phát, khiến chúng ta bất an. Tuy vậy, ngoài những giải pháp khác nhau mà các quốc gia ứng phó với cuộc khủng hoảng này, thì tính bất lực trong việc chung tay hành động lại trở nên khá rõ rệt. Do mọi kết nối vượt ranh giới quá mức, mà chúng ta chứng kiến sự rạn nứt chia rẽ, lại càng khó giải quyết những vấn đề này đang tác động đến chúng ta hơn. Nếu ai cũng chỉ nghĩ rằng đây là bài học kinh nghiệm cần phải cải thiện việc chúng ta đang làm, hoặc tinh luyện các hệ thống và quy định hiện tại, thì chính họ đang phủ nhận thực tế.
Trong thời đại chúng ta, tôi ước mong rằng chúng ta có thể đóng góp vào việc tái sinh lòng khát khao phổ quát về tình đệ huynh bằng cách thừa nhận phẩm giá của mỗi con người. Tình mến giữa tất cả đàn ông cũng như phụ nữ. “Nay chúng ta có một bí quyết huy hoàng tiết lộ cho chúng ta biết ước mơ thế nào, cũng như biến đời mình thành cuộc hành trình khám phá tuyệt vời. Chẳng ai có thể đối mặt với cuộc sống trong sự cô lập cả…Chúng ta cần đến một cộng đồng luôn hỗ trợ và giúp đỡ chúng ta, và ngược lại, chúng ta cũng có thể giúp đỡ nhau mãi hướng nhìn về phía trước. Thật hệ trọng biết bao khi cùng nhau mơ ước…Tự bản thân, chúng ta liều mình nhận ra ảo vọng, cũng như mọi thứ không hiện hữu ở đó. Nhưng ước mơ được chung xây” [6]. Vì thế, chúng ta hãy cùng nhau mơ ước như một gia đình nhân loại đơn nhất, như những người bạn đồng hành cùng xác phàm, như những đứa con cùng chung địa cầu, là ngôi nhà chung của chúng ta, để mỗi chúng ta chia sẻ tính phong phú đa dạng của niềm tin cũng như tín ngưỡng riêng, với ngôn từ giọng nói của mình, vì tất cả đều là anh chị em với nhau.
CHƯƠNG I
MÂY ĐEN BAO TRÙM THẾ GIỚI KHÉP KÍN
Không nhằm thực hiện một phân tích toàn diện hay nghiên cứu mọi khía cạnh của cảm nghiệm thời nay, mà đơn giản, tôi chỉ muốn xem xét một số xu thế trong thế giới chúng ta mà nó đang cản trở sự tiến triển của tình huynh đệ phổ quát.
NHỮNG GIẤC MƠ VỠ TAN
Qua bao thập niên, tưởng chừng thế giới chúng ta đã học được biết bao bài học kinh nghiệm từ nhiều cuộc chiến tranh cũng như thảm hoạ, và đang dần tiến tới các loại hình hoà nhập khác nhau. Thí dụ, đã từng có một ước mơ Âu Châu hợp chủng, có khả năng thừa nhận nguồn gốc chung và hân hoan tận tưởng trước tính đa dạng phong phú của nó. Chúng ta nghĩ đến “niềm xác tín vững chắc của những vị sáng lập Liên hiệp Châu Âu, hình dung một tương lai dựa trên năng lực cộng tác hàn gắn chia rẽ, cổ vũ hoà bình và hiệp thông giữa mọi dân tộc thuộc châu lục này” [7]. Tương tự, cũng có một mong ước hoà nhập ngày một tăng tại Châu Mỹ Latinh, và vô vàn biện pháp đã được thực hiện theo hướng này. Ở vài quốc gia và khu vực, các nỗ lực hoà giải và nối lại tình hữu nghị được minh chứng hiệu quả, trong khi nhiều nỗ lực khác cho thấy đầy hứa hẹn triển vọng.
Tuy nhiên, thời đại chúng ta ngày nay dường như đang cho thấy nhiều dấu hiệu của một sự thoái trào nào đó. Các xung đột xa xưa mà đã bị chôn vùi bấy lâu đang bùng phát trở lại, trong lúc trường hợp điển hình của chủ nghĩa dân tộc hiếu chiến, phẫn uất, thiển cận, cực đoan đang trên đà gia tăng. Tại một số đất nước, khái niệm thống nhất quốc gia phổ biến bị các ý thức hệ khác nhau chi phối, đang tạo ra nhiều hình thái của thói ích kỷ và đánh mất cảm thức xã hội do chiêu bài đội lốt bảo vệ lợi ích quốc gia. Một lần nữa, chúng ta được nhắc nhở rằng “mỗi thế hệ sau phải gánh vác mọi tranh đấu và thành tựu của thế hệ trước, trong khi đặt tầm nhìn của mình cao hơn. Đó chính là chặng đường. Lòng tốt, cùng với tình yêu, công bình và liên đới, không chỉ đạt được một lần và cho tất cả mãi mãi, mà là phải nhận ra nó mỗi ngày. Chẳng thể nào an phận với những gì đã đạt được trong quá khứ, và tự mãn tận hưởng nó như thể bằng cách nào đó, chúng ta không đếm xỉa gì đến thực tại mà nhiều người anh chị em vẫn đang chịu đựng những tình cảnh cần chúng ta lưu tâm” [8].
“Mở rộng toàn cầu” là kiểu nói mà các nhà kinh tế-tài chính kết nạp, và nay chỉ được sử dụng độc quyền cho lợi ích nước ngoài hay mở cửa tự do cho những cường quốc kinh tế đầu tư mà không cần phải đối mặt với ngăn trở hoặc điều kiện phức tạp tại mọi quốc gia. Các xung đột địa phương và thói xem thường lợi ích chung bị nền kinh tế toàn cầu lợi dụng nhằm áp đặt một mô hình văn hoá đơn nhất. Nền văn hoá này thống nhất thế giới, nhưng chia rẽ các dân tộc và quốc gia, bởi vì “xã hội ngày càng trở nên toàn cầu hoá, nó biến chúng ta thành hàng xóm láng giềng với nhau, nhưng không làm chúng ta trở thành anh chị em của nhau” [9]. Chúng ta cô đơn hơn bao giờ hết trong một thế giới đang bùng nổ chóng mặt, nó thúc đẩy tư lợi, nhưng làm suy yếu tính cộng đồng của đời sống. Thật vậy, quá nhiều thị trường mà nơi ấy các cá nhân chỉ là giới tiêu thụ đơn thuần hoặc những kẻ bàng quan. Như một quy luật, sự tiến bộ của loại hình toàn cầu hoá này củng cố căn tính của kẻ mạnh thêm, là những người chỉ bảo vệ bản thân, nhưng lại có xu hướng hạ thấp căn tính của người yếu thế và các khu vực nghèo hơn, khiến họ càng tổn thương và bị lệ thuộc. Theo cách này, đời sống chính trị trở nên mong manh trước các cường quốc kinh tế xuyên quốc gia hoạt động dựa trên nguyên tắc “chia để trị”.
Kết liễu của ý thức lịch sử
Vì vậy, ngày càng đánh mất cảm thức lịch sử, dẫn tới tình trạng chia rẽ thậm chí còn sâu xa hơn. Một loại “chủ nghĩa phá hoại” đang tồn tại và dần hình thành trong văn hoá ngày nay, theo đó, tự do của con người cho là mình có thể tạo ra mọi thứ từ con số không. Khi trỗi dậy, một thứ nó để lại phía sau đó là động lực tiêu thụ vô hạn và các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân rỗng tuếch. Bận tâm về điều này đã khiến tôi đưa ra vài lời khuyên cho người trẻ. “Nếu như ai đó bảo các bạn trẻ làm ngơ lịch sử của họ, bác bỏ những kinh nghiệm của bậc cao niên, xem thường quá khứ và hướng tới một tương lai mà chính họ nắm giữ, thì lúc đó há chẳng dễ dàng lôi kéo họ để họ chỉ làm theo những gì người này nói với họ thôi sao? Người này muốn các bạn trẻ nông nổi, quên đi nguồn cội và bất tín, để chỉ biết tin tưởng vào lời hứa hẹn suông, rồi làm theo kế hoạch của kẻ ấy. Đây là phương cách mà các ý thức hệ khác nhau được vận hành: chúng huỷ hoại (hoặc phá hoại) tất cả đặc tính khác biệt, để rồi dễ dàng cai trị mà chẳng lo bị phản đối. Tuy nhiên, để làm điều đó, chúng cần các bạn trẻ mù mờ về lịch sử, khinh thường những giá trị tâm linh và nhân bản phong phú, mà được thừa hưởng từ các thế hệ đi trước, cũng như vô tri mọi thứ diễn ra trước họ” [10].
Đây là những hình thức thực dân kiểu mới về văn hoá. Chúng ta đừng quên rằng “dân tộc nào từ bỏ truyền thống của mình, kể cả do loạn trí bắt chước kẻ khác, hay vì bạo lực xúi giục, lẫn do tính phóng túng không thể dung thứ hoặc vì thói ác cảm, đều cho phép kẻ khác cướp lấy chính linh hồn họ, dẫn đến kết cuộc đánh mất không chỉ bản sắc tinh thần, mà còn cả sự nhất quán đạo đức của họ, và sau cùng, là tính độc lập về trí tuệ, kinh tế lẫn chính trị nữa” [11]. Một cách hữu hiệu nhằm làm suy yếu ý thức lịch sử, tư duy biện chứng, tranh đấu cho công lý và mọi diễn trình hoà nhập, đó là biến những hạn từ tuyệt vời nơi dân tộc ấy thành sáo rỗng, hoặc thao túng họ. Ngày nay, các cụm từ như dân chủ, tự do, công bằng hay hiệp nhất thật sự có nghĩa gì? Chúng đã bị bẻ cong, và bị bóp méo, chỉ được xem như những công cụ thống trị, như các cụm từ vô nghĩa, ngõ hầu biện minh cho bất cứ hành động nào.
THIẾU KẾ HOẠCH CHO MỌI NGƯỜI
Cách tốt nhất để thống trị và kiểm soát mọi người là truyền bá nỗi tuyệt vọng và sự nhát đảm, ngay cả bằng hình thức đội lốt bảo vệ các giá trị nào đó. Ngày nay, tại nhiều quốc gia, lối nói cường điệu, chủ nghĩa cực đoan và tính phân cực trở nên những công cụ chính trị. Vận dụng chiến lược chế nhạo, đa nghi và chỉ trích tàn nhẫn, cũng như bằng mọi cách khước từ quyền con người được sinh tồn và được nêu ý kiến. Các giá trị và chân lý cùng sẻ chia của họ bị từ chối, và do đó, đời sống xã hội trở nên nghèo nàn và chịu cảnh tùng phục trước sự xấc xược của kẻ nắm quyền. Đời sống chính trị thì không còn phải tranh biện lành mạnh về các kế hoạch lâu dài, nhằm thúc đẩy cuộc sống của người dân, và phát triển công ích nữa, ngược lại, chỉ toàn là những kỹ thuật quảng bá đánh bóng chủ yếu nhắm tới việc hạ bệ uy tín người khác. Trong bối cảnh kết tội hèn nhát cũng như buộc tội này, tranh luận chỉ khiến suy thoái, rơi vào tình trạng bất hoà và đối đầu vĩnh viễn mà thôi.
Giữa bao xung đột lợi ích tranh chấp, nơi mà bao hàm chiến thắng thì phải loại bỏ đối thủ, thì làm sao chúng ta có thể nâng tầm mắt để nhận ra người lân cận của ta, hay giúp những ai ngã quỵ giữa đường được? Một kế hoạch đưa ra với các mục tiêu lớn lao để phát triển toàn bộ gia đình nhân loại ngày nay trông như chứng mất trí ngớ ngẩn. Chúng ta ngày càng xa cách nhau, trong khi chặng đường đòi hỏi tiến chậm về một thế giới dần dần thống nhất và công bằng, thì nó đang chịu cảnh thoái trào kiểu mới ghê gớm.
Quan tâm đến thế giới mà chúng ta đang sống nghĩa là phải quan tâm đến chính mình. Song, chúng ta cần ngẫm nghĩ về bản thân nhiều hơn như một gia đình đơn nhất đang chung sống trong ngôi nhà chung. Mối quan tâm này không gây hứng thú gì cho những cường quốc kinh tế mà nó đang đòi hỏi lợi nhuận nhanh chóng. Đôi khi tiếng nói cất lên để bảo vệ môi trường bị buộc câm lặng hay bị chế giễu, sử dụng những lập luận bề ngoài hợp lý chỉ để làm bình phong cho tư lợi đặc biệt. Trong nền văn hoá nông cạn thiển cận mà chúng ta tạo ra cướp đi viễn kiến chung này, “có thể tiên liệu rằng một khi nguồn tài nguyên cạn kiệt, thì cuộc chiến tranh mới sẽ được dàn xếp xảy ra, cho dù dưới chiêu bài các yêu sách cao thượng nào chăng nữa” [12].
Một thế giới “vứt bỏ”
Dường như, một số thành phần trong gia đình nhân loại chúng ta có lẽ sẵn sàng hy sinh cho lợi ích của người khác, mà họ được xem là đáng được hưởng một cuộc sống vô tư hơn. Nói cho cùng, “con người không còn được coi là giá trị tối thượng cần được chăm sóc và tôn trọng nữa, đặc biệt khi họ nghèo nàn và tàn tật, ‘chưa hữu dụng” – như những trẻ thơ chưa chào đời, hay ‘không còn cần nữa’ – như người già nua. Chúng ta trở nên thờ ơ với mọi hoang phí, khởi đi từ việc lãng phí thức ăn, mà hành vi này đáng trách vô cùng” [13].
Tỉ lệ sinh giảm dẫn tới hiện trạng dân số già, cùng với chuyện đẩy người già vào cuộc sống buồn bã và cô đơn, chính là cách thức tinh vi, lột tả mọi điều về chúng ta rằng chỉ những thứ mà cá nhân mình quan tâm mới quan trọng. Như vậy, “không chỉ thức ăn và vật dụng thừa thải bị vứt bỏ, mà đôi khi con người cũng chịu như vậy” [14]. Chúng ta chứng kiến mọi điều xảy ra với người lớn tuổi ở nơi nào đó trên thế giới này như là một hệ luỵ của vi-rút cô-rô-na này. Họ không đáng phải chết như thế; nhưng vài sự việc tương tự đã diễn ra khá lâu suốt thời gian nóng bức, cũng như trong nhiều tình cảnh khác: người già nhận thấy mình bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn. Chúng ta không nhận ra rằng chính chúng ta đang làm gia đình mình biến dạng và trở nên nghèo nàn, mỗi khi cô lập người già, để họ bơ vơ một mình mà chẳng có thành viên nào mảy mảy đến chăm sóc, gần gũi, quan tâm, vỗ về. Kết cuộc, chúng ta cũng cướp đi tình thân nối kết thiết thực của người trẻ với cội nguồn và sự khôn ngoan mà họ không thể tự mình có được.
Cách loại bỏ người khác có lẽ diễn ra dưới vô vàn dạng thức khác nhau như: nỗi ám ảnh của việc giảm giá thành lao động mà chẳng cần bận tâm đến hậu quả khôn lường, kể từ lúc nạn thất nghiệp trực tiếp nổ ra, khiến sự nghèo khổ càng lan rộng [15]. Hơn nữa, chẳng chút do dự loại bỏ người khác thường được biểu lộ qua những thái độ xấu xa mà chúng ta đã ấp ủ trong tư tưởng từ lâu như: chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, nó được chôn dấu sâu dưới lòng đất, chỉ chờ thời bùng phát trở lại. Nhiều vụ việc do chủ nghĩa này gây ra vẫn đang tiếp diễn, khiến chúng ta xấu hổ tủi nhục, vì nó cho thấy rằng sự tiến triển cần phải có của xã hội này cũng chẳng thật hoặc chắc chắn như chúng ta nghĩ.
Một số quy luật kinh tế đã chứng tỏ hữu hiệu cho tính tăng trưởng, nhưng không nhằm phát triển nhân bản toàn diện [16]. Tài sản tăng, nhưng sự bất bình đẳng lại giảm, và hệ quả, “nhiều loại hình khó nghèo nảy sinh” [17]. Tuyên bố cho rằng thế giới hiện đại sẽ giảm đói nghèo bằng cách đo mức độ nghèo dựa trên các tiêu chuẩn xa xưa, mà không đáp ứng với những thực tế hiện nay. Thí dụ ở thời đại khác, nhà nhà thiếu điện, nhưng không ai xem đây là dấu hiệu của tình trạng nghèo đói, cũng chẳng phải là gốc rễ của gian truân. Sự nghèo khổ phải luôn luôn được thấu hiểu và được đánh giá đúng đắn trong bối cảnh của những cơ hội thật sự có sẵn tại mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể.
Thiếu nhân quyền phổ quát
Trên thực tế, chẳng phải lúc nào cũng rõ ràng, nhưng nhân quyền không bình đẳng cho tất cả mọi người. Tôn trọng những quyền ấy “là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của một quốc gia về mặt xã hội lẫn kinh tế. Khi phẩm giá con người được tôn trọng, thì quyền của họ được nhìn nhận và được đảm bảo, sự sáng tạo và tính phụ thuộc lẫn nhau đâm chồi nẩy lộc, và sáng kiến nơi phẩm hạnh con người được bộc lộ qua các hành động làm gia tăng công ích” [18]. Tuy nhiên, “quan sát kỹ lưỡng xã hội đương đại ngày nay, khi chứng kiến vô số tương phản, chúng ta không khỏi ngạc nhiên tự hỏi rằng liệu nhân phẩm bình đẳng đã được trân trọng công bố cách đây 70 năm, nay thật sự được nhìn nhận, tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy trong mọi hoàn cảnh chưa! Thế giới hôm nay còn tồn tại quá nhiều hình thức bất công, mà nó được bổ béo bằng những lối nhìn mang tính nhân chủng học giảm thiểu, và mô thức kinh tế chủ yếu dựa vào lợi nhuận không do dự bóc lột, trừ khử, thậm chí sát hại con người. Trong lúc một phần nhân loại sống trên nhung lụa sa hoa, thì phần khác nhận thấy phẩm giá của họ bị khước từ, bị nguyền rủa hay bị chà đạp, và những quyền căn bản của họ bị tước đoạt hoặc bị xâm phạm” [19]. Điều này nói cho chúng ta biết gì về bình đẳng quyền lợi vốn được gắn liền với phẩm giá bẩm sinh của con người?
Tương tự, tổ chức xã hội toàn cầu vẫn còn xa vời với tư tưởng rõ ràng cho rằng phụ nữ sở hữu cùng một phẩm giá và quyền lợi căn tính như người nam. Chúng ta tiêu tốn nhiều lời về một sự việc, nhưng thực tế và các quyết định của ta lại là câu chuyện khác. Thật vậy, “những người phụ nữ ấy chịu khổ cực song đôi, vừa phải cam chịu tình cảnh bị loại trừ, bị ngược đãi và bạo hành, vừa không thể biện hộ quyền lợi cho bản thân” [20].
Chúng ta cũng nên nhận ra rằng “ngay cả cộng đồng quốc tế có chấp nhận vô số hiệp ước nhắm tới việc chấm dứt tình trạng nô lệ dưới mọi hình thức, và phát động vô vàn chiến lược nhằm chống chọi với hiện tượng này chăng nữa, thì hàng triệu người ngày nay – trẻ em, phụ nữ và đàn ông với mọi lứa tuổi – đã bị tước đoạt tự do và buộc phải sống trong những điều kiện gần như nô lệ…Giống như trước kia, tình trạng nô lệ ngày nay bắt nguồn từ quan niệm của những người cho phép kẻ khác đối xử với bản thân mình như một món đồ…Cho dẫu bị cưỡng bách hoặc bị lừa dối, bị câu thúc về thể lý hay tâm lý đi nữa, thì con người vốn đã được dựng nên theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa, nay bị cướp mất tự do, bị bán buôn và bị giảm thiểu hoá thành vật sở hữu của người khác. Họ bị đối xử như chỉ là phương tiện cho một mục đích…[các mạng lưới tội phạm] lợi dụng kỹ năng dùng hết mọi phương tiện truyền thông hiện đại để chiêu dụ đàn ông cũng như phụ nữ trên toàn thế giới” [21]. Một sự xuyên tạc vượt quá giới hạn khi nó bắt phụ nữ làm nô dịch, rồi ép buộc họ phá thai. Điều càng kinh tởm hơn là nạn bắt cóc con người nhằm buôn bán các bộ phận cơ thể họ. Mua bán con người và mọi hình thức nô lệ đương thời khác trở nên vấn đề toàn cầu, cần được toàn thể nhân loại nói chung nghiêm túc xem xét: “kể từ khi các tổ chức tội phạm sử dụng mạng lưới toàn cầu để đạt được những mục tiêu của chúng, thì mọi cố gắng xoá bỏ hiện tượng này cũng thật sự đòi hỏi một nỗ lực chung mang tính toàn cầu từ tất cả các bộ phận xã hội khác nhau” [22].
Mâu thuẫn và sợ hãi
Các cuộc chiến tranh, khủng bố, bách hại chủng tộc hoặc tôn giáo, và nhiều kiểu lăng mạ nhân phẩm tuy bị lên án bằng mọi cách khác nhau, nhưng còn phải lệ thuộc vào một điều chủ yếu là chúng thật sự thuận lợi cho nền kinh tế và lợi tức ra sao. Mọi thứ sẽ đúng đắn, miễn là nó tiện lợi cho ai đó nắm quyền, nhưng sẽ bị chấm dứt một khi không còn thuận lợi nữa. Cụ thể, những tình trạng bạo lực này “trở nên quá bình thường như thể tạo ra một ‘cuộc chiến tranh thế giới thứ ba’, mà trong đó đang phải vật lộn cho từng miếng ăn” [23].
Điều này không quá đỗi ngạc nhiên, nếu chúng ta nhận ra rằng mình đã không chung tầm nhìn mà thống nhất ta nữa; quả vậy, nạn nhân đầu tiên của mọi cuộc chiến chính là “ơn gọi bẩm sinh cho tình mến huynh đệ của gia đình nhân loại”. Vì thế, “mọi tình cảnh đe hoạ sẽ sinh ra lòng bất tín và khiến con người chui rút về nơi an toàn của họ” [24]. Thế giới chúng ta bị mắc kẹt trong một mâu thuẫn lạ thường: chúng ta tin rằng mình có thể “đảm bảo tính an định và hoà bình bằng cảm thức sai lầm về sự an toàn mà được duy trì bởi một thứ não trạng sợ hãi và bất tín” [25].
Nghịch lý thay, chúng ta đầy nỗi lo sợ di căn rằng sự phát triển công nghệ sẽ bị lụi tàn, không được nối vị; nhưng thật ra, những nỗi hãi hùng ấy đã và đang được che giấu cũng như được khuếch trương dưới dạng công nghệ tiên tiến. Tương tự, ngày nay, bên ngoài tường thành thị trấn cổ xưa thì đầy rẫy vực thẳm, địa hạt vô danh, và hoang mạc. Bất kể thứ gì đến từ đó đều không thể tin được, bởi lẽ nó khuyết danh, xa lạ, không thuộc về bản sắc làng quê. Nó là địa hạt của “những kẻ man rợ”, mà chúng ta phải tự vệ chống lại chúng bằng mọi giá. Do đó, tường thành mới được dựng lên để tự bảo tồn, nhưng thế giới bên ngoài sẽ ngừng hiện hữu và chỉ còn lại thế giới “riêng tôi” đến độ người khác không còn được xem là con người vốn sở hữu một phẩm giá bất khả chuyển nhượng, giờ đây trở thành “bọn chúng/bọn họ”. Một lần nữa, chúng ta bắt gặp “cám dỗ xúi giục xây thành đắp luỹ văn hoá, dựng lên đồn lớn, thành cao trong tâm hồn, tường luỹ trên mặt đất, nhằm ngăn chặn giao lưu với các văn hoá khác, và gặp gỡ tha nhân. Cũng nên biết rằng những kẻ xây thành đắp luỹ sẽ kết thúc như những nô lệ trong chính bốn bức tường mà họ dựng lên. Họ chỉ còn lại một mình trong nỗi vô vọng bất định, bởi lẽ họ thiếu tương tác với người khác” [26].
Những ai cảm thấy bị bỏ rơi vì hệ thống xã hội tạo ra đất đai mầu mỡ cho các nhóm “băng đảng mafia” khác nhau, thì lại trải nghiệm nỗi cô đơn, sợ hãi và bất an ray rứt. Chúng sinh sôi nẩy nở vì tự cho rằng họ sẽ bảo vệ những ai bị quên lãng, và giúp đỡ họ bằng mọi hình thức hỗ trợ khác nhau, nhưng thật chất họ chỉ đeo đuổi những lợi tức tội phạm thôi. Trong thực tế cũng đang tồn tại một khoa đào luyện được mệnh danh là thành viên băng đảng “mafia” điển hình, bằng cách kêu gọi tham gia vào một nền huyền bí cộng đồng giả tạo, tạo ra những ràng buộc lệ thuộc và dạ trung thành rất khó mà thoát ra được.
TOÀN CẦU HOÁ VÀ TIẾN BỘ MÀ THIẾU BẢN ĐỒ DẪN LỐI CHUNG
Cùng với vị Imam Đáng kính Ahmad Al-Tayyeb, chúng tôi không thể phớt lờ những tiến bộ tích cực trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, y tế, công nghiệp và phúc lợi, mọi sự tại những quốc gia phát triển. Nhưng “chúng tôi ước muốn nhấn mạnh rằng với tiến bộ lịch sử, vĩ đại và giá trị như chúng vốn có này, thì cũng tồn tại một sự sa đoạ luân lý mà nó chi phối đến hành động mang tính quốc tế, và làm suy yếu các giá trị tâm linh cũng như tinh thần trách nhiệm. Điều này thêm vào cảm giác thất vọng, cô lập và tuyệt vọng”. Chúng tôi chứng kiến “căng thẳng nổ ra và chạy đua vũ trang đạn dược trong một bối cảnh toàn cầu hoàn toàn bị chiếm lĩnh bởi sự phù vân, ảo tưởng tan vỡ, nỗi lo sợ tương lai, và bị những lợi ích kinh tế hạn hẹp kiểm soát”. Chúng tôi cũng chỉ ra rằng “nhiều cuộc khủng hoảng chính trị lớn, tình trạng bất công và thiếu sự phân bổ đồng đều về tài nguyên thiên nhiên…Khi đối mặt với những cuộc khủng hoảng như thế kéo theo hệ luỵ hàng triệu trẻ em thiệt mạng – gầy hao vì nghèo khổ và đói ăn – một sự câm lặng không thể chấp nhận được ở cấp độ quốc tế” [27]. Với tất cả những tiến bộ không thể phủ nhận trên, thì bối cảnh toàn cục này dường như không thể nào hướng tới một tương lai đầy nhân ái hơn được.
Trong thế giới hôm nay, cảm thức thuộc về một gia đình nhân loại đơn nhất đang phai nhạt mờ dần, và giấc mơ chung tay hành động vì công lý và hoà bình dường như chỉ còn là một hệ thức cổ xưa không tưởng. Thay vào đó, những gì đang chiếm lĩnh, chính là sự thờ ơ nguội lạnh, tiện nghi mang tính toàn cầu, được ra đời từ ảo tưởng tan vỡ sâu sắc mà bị che dấu dưới ảo giác dối trá: nghĩ tưởng rằng chúng ta toàn năng, trong khi chẳng thể nào nhận ra mình cũng đang chơi vơi trên cùng một chiếc thuyền đời. Ảo tưởng này không màng đến các giá trị huynh đệ lớn lao, dẫn đến “một thứ triết thuyết yếm thế. Vì chúng ta phải đối mặt với cơn cám dỗ ấy, nên chúng ta rơi vào con đường của sự giải mê và nỗi thất vọng…Cô lập và thu mình vào tư lợi sẽ chẳng bao giờ là cách thức để khôi phục lại niềm hy vọng, cũng như dẫn đưa tới sự canh tân đâu. Đúng hơn, đó là sự gần gũi; văn hoá của gặp gỡ. Hãy nói ‘không’ với thái độ cô lập, thưa ‘vâng’ với sự gần gũi. Nói ‘không’ với xung đột văn hoá; nhưng thưa ‘vâng’ với văn hoá gặp gỡ” [28].
Trong thế giới này, các cuộc chạy đua phía trước, song thiếu bản đồ dẫn lối chung, khiến chúng ta ngày càng cảm thấy “khoảng cách giữa sự quan tâm đến thiện ích cá nhân với sự phồn vinh của cả gia đình nhân loại rộng lớn hơn dường như đang giãn xa đến nỗi tình trạng chia rẽ hoàn toàn giữa những cá thể và cộng đồng nhân loại…Một mặt, cảm nhận bị thôi thúc phải sống chung với nhau, nhưng có gì đó khác hẳn trong cách đánh giá sự đa dạng và vẻ đẹp của những hạt giống nơi cuộc sống chung, mà nó cần phải được tìm thấy và được vun trồng” [29]. Kỹ thuật không ngừng tiến bộ, nhưng “sẽ tuyệt vời biết bao, nếu sự tăng trưởng của sáng kiến khoa học kỹ thuật đồng hành với sự bình đẳng và tính liên hệ xã hội bao hàm. Tuyệt vời biết bao, ngay cả khi chúng ta khám phá các hành tinh xa xôi kia thì cũng tái khám phá nhu cầu của anh chị em, mà họ đang trong quỹ đạo quanh chúng ta” [30].
NHỮNG TRẬN ĐẠI DỊCH VÀ TAI ƯƠNG KHÁC TRONG LỊCH SỬ
Quả thật, bi kịch toàn cầu như trận đại dịch cô-vi-19 này tức khắc thay đổi cảm thức rằng chúng ta là một cộng đồng thế giới, tất cả đang trên một chiếc thuyền đời, nơi mà mọi vấn đề của một người cũng là của chung. Lần nữa, chúng ta nhận ra rằng không ai được cứu rỗi một mình cả; chúng ta chỉ có thể được cứu độ cùng nhau. Như tôi đã từng nói trong thời gian đó, “bão tố sẽ giật tung, phơi bày các thương tổn của chúng ta, và mở toang vô số những tất định sai lầm thừa thải ấy, mà xoay quanh nó, chúng ta đưa ra chương trình hằng ngày, đề án, thói quen và những điều ưu tiên…Giữa trận bão cuồng phong này, vẻ bề ngoài rập khuôn mẫu mà chúng ta dùng để nguỵ trang cái tôi bản thân, và nỗi bận tâm lo lắng về diện mạo ấy sẽ vỡ tan tành, lộ ra lần nữa nhận thức diễm phúc song chẳng thể nào lãng tránh được một sự thật rằng chúng ta là bộ phận của nhau, và chúng ta là anh chị em với nhau” [31].
Thế giới không hề nao núng thẳng tiến tới một nền kinh tế, mà nhờ kỹ thuật phát triển, nó tìm cách giảm thiểu “giá trị nhân bản”; chắc hẳn, có nhiều kẻ muốn chúng ta tin rằng tự do thương mại đủ để giữ mọi thứ an toàn. Thế nhưng cú đấm tàn ác mà chẳng thể tiên liệu của trận đại dịch ngoài tầm kiểm soát này đã buộc chúng ta phải khôi phục lại mối quan tâm đến con người, cho mọi người, hơn là lợi ích riêng của một vài thiểu số. Ngày nay, có lẽ chúng ta nhận ra rằng “mình nuôi dưỡng ước mơ rực rỡ và huy hoàng, nhưng lại kết thúc lãng phí trong sự rối bời, cô độc và đơn côi. Chúng ta ngấu nghiến nhồi nhét trên mạng xã hội, nhưng lại đánh mất mùi vị của tình mến huynh đệ. Chúng ta đi tìm kết quả nhanh chóng và an toàn chỉ để nhận ra mình bị choáng ngợp do tính nóng vội và khắc khoải âu lo. Là những tù nhân của thực tế ảo, chúng ta đánh mất khẩu vị và hương vị của thực tại đích thật” [32]. Nỗi đau, vô thường và sợ hãi, cũng như việc nhận ra những giới hạn bản thân, nhờ cơn đại dịch này mà khiến chúng ta phải quyết định cấp bách hơn là ngẫm nghĩ lại cung cách sống, các mối tương quan, tổ chức xã hội, và trên hết ý nghĩa của sự hiện hữu bản thân.
Giả như mọi sự được kết nối, thì khó lòng hình dung ra một cơn đại hoạ toàn cầu mà chẳng liên can đến cách chúng ta tiếp cận thực tế, cũng như tự cho rằng chúng ta là những chủ nhân tuyệt đối của đời mình và tất cả mọi thứ tồn tại. Tôi không muốn nói tới sự trừng phạt thánh thiêng, cũng không thể nói rằng nguy hại mà chúng ta gây ra cho thiên nhiên tự nó đã là án phạt cho sự xúc phạm của chúng ta rồi. Chính thế giới đang phải rên siết trong cảnh nỗi loạn cáu xé. Chúng ta được nhắc nhớ một câu thơ nổi tiếng của thi sĩ Virgil đã gợi lên “những giọt lệ tạo vật”, sự rủi ro của cuộc đời và lịch sử [33].
Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều quá vội vã, quên mất những bài học lịch sử, mà là “bậc thầy của cuộc đời” [34]. Một khi cuộc khủng hoảng sức khoẻ này qua đi, thì chắc hẳn phản ứng tệ hại hơn của chúng ta ngày càng lún sâu vào chủ nghĩa thực dụng tựa như cơn sốt, và những loại hình mới mẻ của chủ trương ôm ấp cái tôi. Sau tất cả, nếu Chúa muốn, chúng ta sẽ không còn nghĩ về “chúng” hay “của chúng” nữa, mà chỉ là “chúng ta”. Điều này có thể minh chứng chỉ khi không còn một thảm kịch lịch sử nào khác, mà từ đó chúng ta vốn chẳng rút ra được bài học nào. Chỉ khi chúng ta nhớ tới những cụ già đã thiệt mạng vì thiếu máy trợ thở, một phần cũng do triệt phá các hệ thống y tế từ năm này sang năm khác. Chỉ khi nỗi đau hằn sâu này không trở thành vô ích, nhưng giúp chúng ta tiến về phía trước, bước tới một lối sống tươi mới hơn. Chỉ khi chúng ta tái khám phá một lần nữa cho tất cả nhũng gì chúng ta cần cho nhau, và như vậy, gia đình nhân loại mới có thể cảm nghiệm được sự tái sinh trên mọi khuôn mặt, đôi tay và trong mọi giọng nói, vượt mọi tường luỹ mà chúng ta đã dựng lên.
Trừ phi chúng ta khôi phục lại lòng hăng say chung tay kiến tạo một cộng đồng gắn bó và đoàn kết xứng đáng với thời đại, với nguồn năng lượng, tài nguyên của mình, thì ảo tượng toàn cầu sai lầm sẽ vẫn đạp đổ và bỏ lại người người bơ vơ trong cảnh tượng khốn cùng và trống rỗng. Chúng ta đừng quá ngây ngô phớt lờ đi, mà không chịu nhận ra rằng “thói mê mụi với lối sống thực dụng, và trên hết, một ít người vẫn khư khư giữ nó, thì chỉ dẫn tới bạo lực và huỷ hoại nhau mà thôi” [35]. Khái niệm “mọi người vì mình” sẽ nhanh chóng suy thoái, rơi vào tình trạng miễn phí-cho-tất cả, mà nó cho thấy còn tệ hại hơn bất kỳ đại dịch nào.
NHÂN PHẨM VẮNG BÓNG GIỮA BIÊN GIỚI CÁC QUỐC GIA
Các thể chế độc tài chính trị thường hô hào vì nhân dân, như những lối tiếp cận kinh tế cấp tiến, vẫn duy trì chính sách cấm làn sóng di dân nhập cảnh bằng mọi giá. Những luận cứ thường được đưa ra nhằm thực thi quy định phép tắc của việc hạn chế cứu trợ đối với các quốc gia nghèo, ngõ hầu họ có thể bới tận đất đá mà nhận ra mình cần phải áp dụng những khuôn khổ luật lệ hà khắc. Ai đó sẽ không nhận ra đằng sau lời tuyên bố ấy, chỉ toàn là trừu tượng và khó lòng hậu thuẫn, đã khiến vô số mạng sống rơi vào cảnh lâm nguy. Nhiều di dân chạy trốn khỏi chiến tranh, khỏi thiên tai và bách hại. Nhưng thực tế, hầu hết “đi tìm cơ hội cho bản thân và gia đình. Họ mơ ước một tương lai tốt đẹp hơn và họ muốn tạo ra điều kiện để đạt được nó” [36].
Đáng buồn thay, một số người “bị văn hoá Tây phương lôi cuốn, đôi khi vì những kỳ vọng hão huyền khiến họ thất vọng ê chề. Bọn buôn người vô lương tâm thường cấu kết với kẻ buôn ma tuý hoặc vũ khí, uy hiếp di dân, là những người đã trải qua quá nhiều cảnh đời bao lực, nạn buôn người, lạm dụng tâm thể lý và mọi gian truân chẳng thể nào kể hết trên suốt chặng đường di tản” [37]. Những người nhập cư ấy “cảm nghiệm tình cảnh rời xa quê hương, cội nguồn, và thông thường cũng dễ mất gốc cả về mặt văn hoá lẫn tôn giáo. Các cộng đồng mà họ bỏ lại đằng sau cảm nhận được sự rạn nứt, mà nó đã lấy mất đi những nhân tố đầy khí chất, dám làm dám chịu của họ, và các gia đình cũng trải nghiệm tương tự, đặc biệt khi một hoặc cả hai bố mẹ đều di cư, bỏ lại con thơ tại quê nhà” [38]. Vì lí do này, “cần phải tái khẳng định quyền không được nhập cư, nghĩa là vẫn bám trụ ở quê cha đất tổ của mình” [39].
Tiếp đến, tương tự “tại một số nước chủ nhà, nạn di trú gây ra nỗi hoảng sợ và dóng lên lời cảnh báo, nhưng thường bị xúi giục và lợi dụng vì mục đích chính trị. Điều này có thể dẫn đến não trạng bài ngoại, như thể mọi người khép kín, thu mình lại, và nó cần được nêu ra một cách dứt khoát” [40]. Người di dân không được xem như những công dân đáng có quyền tham gia vào đời sống xã hội, và quên rằng họ cũng sở hữu cùng một phẩm giá nội tại như bất cứ ai. Hơn nữa, họ cần phải là “tác nhân tự giải thoát bản thân” [41]. Chẳng ai công khai phủ nhận họ là con người, nhưng trên thực tế, vì những quyết định và cách đối xử của chúng ta đối với họ cho thấy họ bị coi là thua kém giá trị, kém quan trọng và kém nhân bản. Đối với Ki-tô hữu, đây là lối suy nghĩ và hành động không thể nào chấp nhận được, bởi lẽ nó ưu tiên đặt phương diện chính trị trên cả những niềm xác tín sâu xa của đức tin chúng ta: phẩm giá bất khả chuyển nhượng của mỗi con người, bất luận cội nguồn, sắc tộc hay tôn giáo, và là luật tối thượng của tình mến đệ huynh.
“Hơn bao giờ hết, tình trạng di dân sẽ đóng vai trò then chốt trong tương lai của thế giới này” [42]. Tuy nhiên, hiện tại, nạn di dân bị tác động do “hành vi đánh mất cảm thức chịu trách nhiệm cho anh chị em, mà đây chính là nền tảng của mọi xã hội dân sự” [43]. Thí dụ, Châu Âu đã quá liều mạng bước theo lối mòn này. Nhưng “được thừa kế di sản văn hoá vĩ đại và tôn giáo trợ giúp, mà nó sở hữu các phương thế bảo vệ điều cốt lõi của con người, và tìm ra giải pháp cân bằng đúng đắn giữa trách nhiệm luân lý kép nhằm bảo vệ quyền lợi công dân, đồng thời bảo đảm việc trợ giúp và chấp nhận di dân” [44].
Tôi nhận thấy rằng một số người rất do dự và e ngại khi nói đến vấn đề di dân. Tôi xem đây là một phần của bản năng tự vệ tự nhiên của họ. Tuy nhiên, cũng đúng khi một cá thể hoặc một dân tộc chỉ đạt kết quả và hiệu suất nếu họ có khả năng phát huy sự cởi mở với người khác một cách sáng tạo. Tôi thỉnh cầu mọi người vượt lên những phản ứng căn bản đó, bởi vì “vấn nạn sẽ tồn tại khi mọi nghi ngờ, sợ hãi ra điều kiện cho chúng ta phải suy nghĩ và hành động đến mức khiến bản thân mình trở nên cố chấp, khép kín, thậm chí có thể thành kẻ phân biệt chủng tộc nếu không nhận ra nó. Do đó, nỗi hoảng sợ cướp đi cơn khát vọng và khả năng kết nối gặp gỡ tha nhân của chúng ta” [45].
ẢO TƯỞNG TRUYỀN THÔNG
Trong lúc thái độ khép kín và cố chấp đối với người khác gia tăng, thì ngược lại, khoảng cách đang thu hẹp dần hoặc biến mất tới mức quyền riêng tư tồn tại chẳng bao nhiêu. Mọi sự đã trở thành cảnh tượng ngoạn mục cần được giám định và xem xét, còn đời sống người dân hiện nay thì luôn bị thám thính. Truyền thông kỹ thuật số muốn đưa mọi sự ra thanh thiên bạch nhật; còn cuộc sống con người bị bắt bớ, bỏ bê, bàn tán nhưng thường là nặc danh. Lòng tôn trọng tha nhân bị nghiền nát, và thậm chí chúng ta còn gạt bỏ, phớt lờ hoặc giữ khoảng cách với người khác, chúng ta chẳng thấy nhục nhã chút nào khi soi mói từng chi tiết của cuộc đời họ.
Về phần mình, những cuộc vận động trực tuyến đầy rẫy hận thù và huỷ diệt, không phải là hình thức hậu thuẫn tích cực – như một số người vẫn muốn chúng ta tin – nhưng chúng đơn giản chỉ là một liên hiệp các cá thể hợp nhất chống lại kẻ thù chung theo quan niệm riêng. “Truyền thông kỹ thuật số cũng có thể đẩy người dân vào nguy cơ nghiện ngập, cô lập và mất dần kết nối với thực tại cụ thể, ngăn trở sự thăng tiến của các mối tương quan chân chính giữa con người với nhau” [46]. Chúng thiếu cử chỉ thể lý, biểu cảm khuôn mặt, thời khắc thinh lặng, ngôn ngữ cơ thể và ngay cả chẳng có mùi vị gì, chỉ có đôi tay run run, vòm má ửng hồng hay những giọt mồ hôi mới trực tiếp nói chuyện với chúng ta, và đây là một phần của nền truyền thông nhân bản. Các mối liên hệ trong lĩnh vực kỹ thuật số không đòi hỏi vun xới tiệm tiến tình hữu nghị, cũng chẳng buộc phải tương tác bền lâu, hoặc tạo ra đồng tâm nhất trí chín chắn theo thời gian, hay mang diện mạo xã giao. Song, chúng không thật sự xây dựng cộng đồng; thay vào đó, chúng thường nguỵ tạo và khuếch trương chính chủ nghĩa duy cá nhân vốn được biểu hiện qua thái độ bài ngoại, cũng như xem thường những ai dễ bị tổn thương. Tính liên thông kỹ thuật số không đủ sức bắt cầu kết nối. Nó chẳng thể nào hợp nhất nhân loại được.
Công kích vô liêm sỉ
Ngay cả những cá nhân duy trì sự cô lập tiện nghi của chủ nghĩa thực dụng, thì họ vẫn có thể chọn cách cấu kết cuồng nhiệt nhằm kích động lòng hận thù cực độ, hành vi lăng mạ, lạm dụng, phỉ báng và các kiểu bạo hành ngôn từ đến mức huỷ hoại thanh danh người khác do thiếu kiềm chế, trong một diễn biến không thể có trong tiếp xúc thể lý mà kết cuộc lại không xé nát chúng ta ra từng trăm mảnh. Tính công kích xã hội đã tìm được chỗ đứng vô song phát triển qua các phương tiện vi tính và thiết bị di động.
Điều này hiện đang cho phép các ý thức hệ được hoàn toàn tự do hành động. Mọi thứ cách đây vài năm không ai có thể nói ra nếu không liều đánh mất lòng tự trọng phổ quát, thì giờ đây có thể nói mà chẳng sợ bị trừng phạt, thậm chí với những từ ngữ thô thiển nhất từ một số nhân vật chính trị. Chúng ta phải ghi nhớ rằng “nhiều lợi nhuận kinh tế khổng lồ đang vận hành trong thế giới kỹ thuật số, có khả năng kiểm soát một cách tinh vi ví như xâm chiếm, đồng thời tạo ra những cơ chế thao túng lương tâm và tiến trình dân chủ. Cách thức hoạt động của nhiều nguyên lý làm cơ sở cho các hệ điều hành này thường nhận kết cuộc bằng việc chiếu cố gặp gỡ những ai suy nghĩ giống nhau, và bảo bọc họ khỏi cuộc tranh biện. Chu trình khép kín này tạo điều kiện phát tán tin tức giả mạo và thông tin sai lạc, cũng như xúi giục thành kiến và hận thù” [47].
Chúng ta phải nhìn nhận rằng các hình thức cuồng tín mang tính huỷ hoại đôi khi tìm thấy trong các tín nhân, kể cả Ki-tô hữu; có lẽ họ cũng “bị cuốn vào những mạng lưới bạo hành ngôn ngữ qua internet và các diễn đàn khác của truyền thông kỹ thuật số. Ngay cả trên kênh truyền thông Công giáo, họ cũng vượt rào giới hạn, hành vi phỉ báng và vu khống lại trở nên bình thường như chợ phiên; mặc khác, tất cả tiêu chuẩn đạo đức và tôn trọng thanh danh người khác cũng bị bỏ qua” [48]. Vậy, làm sao có thể góp phần vào việc xây dựng tình huynh đệ mà vị Cha chung đang yêu cầu nơi chúng ta được?
Thông tin thiếu khôn ngoan
Sự khôn ngoan đích thật đòi hỏi một cuộc gặp gỡ với thực tại. Tuy nhiên, ngày nay, mọi thứ được tạo ra, trá hình và sửa đổi. Ngay cả gặp gỡ trực tiếp dù ở ven rìa của thực tại thôi vẫn bị coi là không thể dung thứ. Lúc ấy, một cơ chế lựa chọn bắt đầu vào cuộc, theo đó, tôi có thể lập tức tách biệt người thích khỏi người không ưa, thứ tôi cho là hấp dẫn khỏi thứ mình cho là ghê tởm. Tương tự, chúng ta có thể chọn những người mà mình muốn chia sẻ thế giới riêng của bản thân. Còn tình huống hay người nào mà chúng ta cảm thấy khó chịu hoặc bất đồng đơn giản bị bôi xoá trong các mạng lưới ảo ngày nay; rồi một thế giới ảo được tạo ra, cô lập chúng ta với thế giới thật vốn dĩ chúng ta đang sống trong đó.
Khả năng ngồi xuống và lắng nghe người khác, điển hình của những cuộc gặp gỡ giữa người với người, là kiểu mẫu của thái độ chào đón, mà nó được thể hiện qua những ai vượt lên trên tính tự yêu thái quá và chấp nhận tha nhân, quan tâm đến họ, cũng như niềm nở đón chào họ vào cuộc đời mình. Tuy nhiên, “thế giới ngày nay nhìn chung là một thế giới điếc lác…Đôi lúc, bước tiến điên cuồng của thế giới hiện đại ngăn cản chúng ta chăm chú lắng nghe điều người khác đang nói. Giữa chừng, chúng ta đã ngắt lời và muốn nói ngược lại điều họ chưa trình bày xong. Chắc hẳn, chúng ta đánh mất khả năng lắng nghe rồi”. Thánh Phan-xi-cô “đã nghe tiếng Chúa, ngài nghe tiếng người nghèo, tiếng của những ai ốm đau và tiếng của thiên nhiên. Ngài đã đón nhận họ như một lối sống. Tôi mong muốn rằng hạt giống mà Thánh Phan-xi-cô đã gieo trồng sẽ trổ sinh nơi tâm hồn nhiều người” [49].
Khi thinh lặng và thận trọng lắng nghe khuất dạng, thay thế bằng sự mê mẫn nhắn tin, thì cấu trúc căn bản này của truyền thông nhân bản khôn ngoan gặp rủi ro. Một lối sống mới nổi lên, trong đó chúng ta chỉ tạo ra những thứ mình muốn và loại tất cả những gì chúng ta chẳng thể nào kiểm soát hoặc biết được ngay tức khắc và hời hợt. Theo luận lý nội tại của nó, quá trình này ngăn chặn một kiểu suy tư thanh thản mà nó có thể đưa chúng ta đến sự khôn ngoan đã được sẻ chia.
Cùng nhau, chúng ta có thể tìm kiếm sự thật qua đối thoại, trong cuộc trò chuyện thoải mái và tranh luận sôi nổi. Làm được vậy đòi hỏi tính kiên trì; nó bao hàm những khoảnh khắc im lặng và khổ đau, nhưng có thể nhẫn nại đón nhận cảm nghiệm rộng lớn hơn của từng cá thể và các dân tộc. Thực trạng thông tin tràn ngập trong tầm tay chúng ta chẳng làm nên sự khôn ngoan vĩ đại hơn. Khôn ngoan không phát sinh từ những tìm kiếm nhanh chóng trên mạng internet hay từ một khối dữ liệu chưa được kiểm chứng. Nó chưa đủ chin mùi để biến thành cuộc gặp gỡ với chân lý. Các cuộc trò chuyện chỉ xoay quanh dữ kiện mới nhất; thì chỉ có tính ngang tầm và chất chồng đơn thuần mà thôi. Chúng ta mất tập trung chú tâm, không đi sâu vào cốt lõi vấn đề, và chẳng nhận ra điều gì thiết yếu mang lại ý nghĩa cho cuộc đời chúng ta. Vì thế, tự do biến thành ảo tưởng mà người ta đang rao bán cho chúng ta, một thứ ảo tưởng dễ bị nhầm lẫn với khả năng lục lọi trên internet. Diễn trình xây dựng tình huynh đệ, dù ở địa phương hay phổ quát, cũng chỉ được bảo đảm nhờ tinh thần tự do và cởi mở với mọi cuộc gặp gỡ chân chính.
HÌNH THỨC LỆ THUỘC VÀ XEM THƯỜNG BẢN THÂN
Những quốc gia có nền kinh tế thịnh vượng thường được đề cử làm mẫu hình văn hoá cho các nước kém phát triển; thay vào đấy, mỗi quốc gia đó cần được giúp đỡ để tiến triển theo cách riêng biệt, và phát triển năng lực đổi mới trong khi vẫn tôn trọng các giá trị của văn hoá riêng của họ. Ước muốn bắt chước người khác một cách nông cạn và thảm bại dẫn tới việc sao chép và tiêu thụ thay vì sáng tạo, và cổ vũ lòng tự tôn dân tộc thấp kém. Trong các thành phần dư giả tại nhiều nước nghèo, và đôi khi ở những nước vừa mới thoát nghèo, thì tồn tại một đề kháng đối ngược với lối suy nghĩ và hành động bản địa, đồng thời có xu hướng xem thường chính căn tính văn hoá của mình, như thể nó là nguyên nhân chủ yếu cho mọi bất trắc/xấu xa.
Huỷ hoại lòng tự trọng là cách dễ dàng để thống trị người khác. Đằng sau những xu thế mang khuynh hướng sang bằng thế giới này, chúng ta thấy chất chứa quá nhiều tư lợi uy lực lợi dụng lòng tự trọng thấp hèn ấy, trong lúc tạo ra một loại văn hoá mới hầu phục vụ cho giới thượng lưu nhờ phương tiện truyền thông cũng như mạng xã hội. Điều này rập khuôn chủ nghĩa cơ hội của những kẻ đầu cơ tích trữ và cướp phá tài chính, còn người nghèo thì luôn nhận kết cục là kẻ thua cuộc. Cũng vậy, tình trạng phớt lờ văn hoá của dân tộc mình đã đẩy nhiều nhà lãnh đạo chính trị đến chỗ bất lực khi phải đưa ra một kế hoạch phát triển hữu hiệu có thể được tự do chấp nhận và duy trì theo thời gian.
Chúng ta đã quên rằng “không hình thức tha hoá nào tồi tệ hơn là cảm thấy bản thân bị mất gốc, không thuộc về ai cả. Một lãnh thổ sẽ sinh sổi nảy nở, và dân tộc ấy đơm hoa kết trái, đem lại tương lai, chỉ trong chừng mực họ có thể phát huy cảm thức thuộc về nơi các thành viên của họ, tạo gắn kết hoà nhập giữa các thế hệ, cũng như những cộng đồng khác nhau, và tránh tất cả điều gì khiến chúng ta vô cảm đối với tha nhân, đồng thời dẫn tới việc tha hoá hơn nữa” [50].
NIỀM HY VỌNG
Dù chẳng thể nào phớt lờ đi những đám mây tăm tối này, nhưng tôi mong muốn tiếp nhận và bàn luận nhiều nẻo đường mới của hy vọng qua những trang viết tiếp theo. Vì Thiên Chúa tiếp tục gieo vô vàn hạt giống thiện lành nơi gia đình nhân loại chúng ta. Trận đại dịch gần đây giúp chúng ta nhận ra và đánh giá cao một lần nữa tất cả những ai đang hiện hữu giữa chúng ta, tuy giữa cơn sợ hãi, vẫn đã đối ứng bằng cách đặt mạng sống của họ lên tuyến đầu. Chúng ta đã bắt đầu nhận biết đời sống của mình được đan xen và duy trì nhờ những con người bình thường, nhưng dám can đảm tạo ra các biến cố mang tính quyết định trong lịch sử chung của chúng ta: các bác sĩ, y tá, dược sĩ, thủ kho và nhân viên siêu thị, công nhân giặt ủi, điều dưỡng viên, công nhân vận chuyển, nam giới cũng như nữ giới lao động nhằm cung cấp các dịch vụ thiết yếu và an toàn công cộng, các tình nguyện viên, linh mục và tu sĩ…Họ hiểu rằng không ai được cứu vớt một mình cả [51].
Tôi mời gọi mọi người bước vào niềm hy vọng đổi mới, vì hy vọng “truyền đạt cho chúng ta về điều được bén rễ sâu thẳm trong tâm hồn mỗi con người, không lệ thuộc vào các hoàn cảnh và điều kiện lịch sử của chúng ta. Hy vọng nói cho chúng ta về sự khát khao, nguyện vọng, mong mỏi một cuộc sống viên mãn, ước muốn đạt được những điều lớn lao, chất chứa nơi tâm hồn chúng ta, và chúng nâng cao tinh thần ta lên các thực tại cao cả như chân, thiện, mỹ, công bình và bác ái...Hy vọng rất táo bạo; có lẽ nó nhìn vượt xa tiện lợi cá nhân, tính an toàn và tưởng thưởng nhỏ mọn mà chúng hạn chế tầm hiểu biết của chúng ta, đồng thời nó có thể mở lòng chúng ta ra đón nhận các lý tưởng cao quý vốn làm cho cuộc sống trở nên tươi đẹp và đáng giá hơn” [52]. Vậy, chúng ta hãy tiếp tục cùng nhau tiến bước trên các nẻo đường hy vọng.
CHƯƠNG II
NGƯỜI XA LẠ DỌC ĐƯỜNG
56. Chúng ta không nên đọc chương trước như các vấn đề ngày nay được mô tả theo kiểu lạnh lùng và vô tư, vì “vui mừng và hy vọng, sầu khổ và đớn đau của con người thời đại này, đặc biệt của những người nghèo hay ưu phiền, cũng là vui mừng và hy vọng, âu sầu và đau đớn của các môn đệ Đức Ki-tô. Hơn nữa, chẳng gì thật sự của con người mà lại không gieo âm hưởng nơi lòng họ” [53]. Trong nỗ lực tìm kiếm một tia sáng giữa những gì chúng ta đang trải qua, và trước khi đề xuất hướng hành động, ngay lúc này đây, tôi muốn dành một chương nói về dụ ngôn mà Đức Giê-su Ki-tô đã kể cách đây hai ngàn năm. Mặc dù Thông điệp này được gửi đến toàn thể những ai có thiện chí, bất luận niềm tin tôn giáo của họ, nhưng đây là một dụ ngôn mà bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể liên tưởng và nhận thấy đầy thách đố.
“Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: ‘Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?’ Người đáp: ‘Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?’ Ông ấy thưa: ‘Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình’. Đức Giê-su bảo ông ta: ‘Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống’. Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: ‘Nhưng ai là người thân cận của tôi?’ Đức Giê-su đáp: ‘Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Sa-ma-ri-a kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: ‘Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.’ Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?’ Người thông luật trả lời: ‘Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy’. Đức Giê-su bảo ông ta: ‘Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy’” (Lc 10, 25-37).
Bối cảnh
57. Dụ ngôn này liên quan đến một vấn đề xa xưa. Ngay sau trình thuật sáng tạo muôn loài và con người, Kinh Thánh đề cập đến mối liên hệ giữa con người với nhau. Ca-in giết em mình A-bel, rồi nghe Thiên Chúa luận hỏi: "A-bel em ngươi đâu?" (St 4, 9). Lời đáp của Ca-in cũng là câu trả lời mà tất cả chúng ta thường đưa ra: “Con là người giữ em con hay sao?” (nt). Do chính nghi vấn Thiên Chúa đặt ra, nên Người không dành chỗ để nại tới thuyết tiền định hay thuyết định mệnh, hòng biện minh cho sự thờ ơ của chúng ta. Thay vào đó, Người khích lệ chúng ta kiến tạo một nền văn hóa khác, mà trong đó chúng ta giải quyết các xung đột của mình và quan tâm đến nhau.
58. Sách Gióp xem nguồn gốc của chúng ta từ Đấng Tạo Hóa duy nhất là nền tảng của một số quyền lợi chung: “Đấng đã tạo ra tôi trong dạ mẹ không phải là Đấng tạo ra nó hay sao? Và chẳng phải cùng một Thiên Chúa đã tạo ra hết thảy chúng ta trong dạ mẹ đó sao?” (G 31, 15). Nhiều thế kỷ sau, Thánh I-rê-nê đã dùng hình ảnh giai điệu du dương để diễn tả tương tự: “Người kiếm tìm chân lý không nên tập trung vào các dị biệt giữa nốt nhạc này và nốt nhạc kia, cứ ngẫm nghĩ như thể mỗi nốt nhạc được tạo riêng biệt và tách rời nhau; nhưng thay vào đó, nên nhận ra rằng cũng một người và cùng người đó đã sáng tác ra toàn bộ giai điệu” [54].
59. Trong các truyền thống Do Thái trước đây, mệnh lệnh yêu thương và chăm sóc người khác dường như chỉ giới hạn vào những mối liên hệ giữa các thành viên của cùng một quốc gia. Giới răn cổ xưa dạy phải “yêu người lân cận như chính mình” (Lv 19, 18) thường được hiểu như nói đến đồng bào của họ; tuy nhiên, ranh giới dần dần được mở rộng, nhất là trong Do Thái giáo phát triển bên ngoài đất nước Is-ra-el. Chúng ta cũng bắt gặp mệnh lệnh đừng làm cho người khác điều bạn không muốn họ làm cho bạn (x. Tb 4, 15). Vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên, Giáo sĩ Do Thái (Rabbi) Hil-lel đã từng tuyên bố: “Đây là toàn bộ Kinh Tô-rah, còn mọi điều khác đều là bình chú” [55]. Khao khát bắt chước cách hành động riêng của Thiên Chúa dần dần thay thế xu hướng chỉ biết nghĩ đến những ai thân cận chúng ta nhất: “Con người thương xót cận thân, còn Thiên Chúa xót thương mọi xác phàm” (Hc 18, 13).
60. Trong Tân Ước, giới luật của Hil-lel đã được diễn tả với lối tích cực hơn: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7, 12). Mệnh lệnh này mang tính phổ quát về phạm vi, không loại một ai dựa trên cơ sở nhân loại chung quy của chúng ta, bởi lẽ Cha trên trời “làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5, 45). Vậy, Người mời gọi chúng ta “hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6, 36).
61. Qua các bản văn Kinh Thánh lâu đời nhất, chúng ta tìm thấy lý do tại sao nên mở rộng tâm hồn đón nhận người ngoại kiều. Vì nó bắt nguồn từ ký ức lâu dài của người Do Thái cho rằng chính họ đã từng sống như những người ngoại kiều tại Ai Cập:
“Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập” (Xh 22, 21).
“Người ngoại kiều, các ngươi không được áp bức; chính các ngươi đã biết thân phận của người ngoại kiều, vì các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập” (Xh 23, 9).
“Khi có ngoại kiều cư ngụ với (các) ngươi trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp nó. (Các) ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; (các) ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai-cập. Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Lv 19, 33-34).
“Khi hái nho, thì anh (em) không được mót lại; những trái còn sót dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ. Anh em hãy nhớ mình đã làm nô lệ bên đất Ai-cập” (Đnl 24, 21-22).
Còn lời kêu mời bước vào tình mến huynh đệ vang vọng suốt bộ Tân Ước:
“Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình ngươi” (Gl 5, 14).
“Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng, và nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm. Nhưng ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối và đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi đâu, vì bóng tối đã làm cho mắt người ấy ra mù quáng” (1Ga 2, 10-11).
“Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết” (1Ga 3, 14).
“Ai không yêu anh hay chị em mà mình nhìn thấy, thì không thể yêu Thiên Chúa mà mình chưa thấy” (1Ga 4, 20).
62. Tuy nhiên, lời gọi mời yêu thương này có thể bị hiểu nhầm. Thánh Phao-lô nhận thấy các cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi bị cám dỗ thành lập những nhóm khép kín và cô lập, đã thúc giục môn đệ ngài sống trổi vượt hơn trong tình mến “với nhau và với mọi người” (1Tx 3, 12). Trong cộng đoàn theo Thánh Gio-an, các Ki-tô hữu đồng đạo phải được chào đón, “dù họ là những người xa lạ đối với anh (chị) em” (3Ga 5). Ở bối cảnh này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn ý nghĩa của dụ ngôn người Sa-ma-ri-a Nhân hậu: lòng yêu thương không quan tâm đến nơi xuất phát, nhưng cân cần chăm sóc anh chị em, nếu họ đang gặp khó khăn. Bởi lẽ “tình yêu phá tan xiềng xích mà nó vốn kiềm hãm chúng ta trong cô lập và cách biệt; ở nơi ấy, nó xây chiếc cầu kết nối. Lòng bác ái giúp chúng ta kiến tạo một gia đình vĩ đại, mà trong đó, tất cả chúng ta cảm thấy thoải mái như ở nhà…Bác ái tuôn trào niềm xót thương và phẩm giá” [56].
Bị bỏ rơi bên vệ đường
63. Đức Giê-su kể chuyện về một người đàn ông bị tên trộm hành hung và đầy thương tích nằm bên vệ đường. Một số người đi qua thấy, nhưng chẳng buồn dừng lại. Họ là những bậc nắm giữ các vị trí quan trọng trong xã hội, nhưng thiếu quan tâm thực sự đến thiện ích chung. Chắc họ chẳng lãng phí một vài phút nào để chăm sóc người đàn ông bị thương, hoặc thậm chí kêu gọi giúp đỡ đâu. Duy chỉ một người dừng lại, tiến gần đến và đích thân chăm sóc ông ấy, ngay cả chi tiền riêng để cung cấp những gì cần kíp. Người này cũng cho ông ấy một thứ mà chúng ta thường khư khư giữ lấy trong thế giới điên đảo của mình, đó là: thời gian ông dành cho người mắc nạn. Chắc chắn, ông đã có lịch trình cho ngày hôm ấy, cũng như nhu cầu, hẹn ước và mong muốn riêng. Song, ông đã đặt tất cả những điều đó sang một bên khi đối diện với người đang cần đến mình. Dù chẳng hề biết đến người bị thương, nhưng ông vẫn thấy người ấy xứng đáng với thời giờ và sự quan tâm của mình.
64. Trong số những người này, anh chị em nhận ra mình giống ai? Câu hỏi này trông có vẻ hết sức thẳng thừng, nhưng đầy tính trực diện và sắc bén. Anh chị em giống ai trong các nhân vật này? Chúng ta cần thừa nhận rằng mình thường xuyên bị cám dỗ phớt lờ người khác, nhất là những ai yếu thế. Chúng ta cùng thú nhận rằng, dù cho mọi tiến bộ đã đạt được đi chăng nữa, chúng ta vẫn còn “mù chữ” khi bước tới đồng hành, chăm sóc và hỗ trợ các thành viên yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất trong xã hội phát triển thời nay. Chúng ta quá quen với việc nhìn hướng đi khác, làm ngơ, phớt lờ những tình cảnh thế này, cho đến khi nó trực tiếp ảnh hưởng tới mình.
65. Ai đó bị tấn công trên lộ trình chúng ta, nhưng nhiều người lại vội vàng bước qua như không hề thấy. Người ta tông xe vào ai khác, rồi bỏ chạy khỏi hiện trường. Mong muốn duy nhất của họ là tránh lôi thôi; nhưng đó không quan trọng vì người khác có thể mất mạng do lỗi họ. Mọi việc này đều là dấu hiệu của một lối tiếp cận cuộc sống đang lan tràn trong nhiều cách thức tinh vi khác nhau. Hơn thế nữa, do phải bắt kịp với các nhu cầu của chính mình, nên chúng ta cảm thấy phiền phức trước cảnh tượng một người đang đau khổ. Nó khiến chúng ta bực bội, vì lẽ chúng ta không có thời giờ để lãng phí cho các vấn đề của tha nhân. Đây là những triệu chứng của một xã hội bệnh hoạn/ốm đau, một xã hội tìm kiếm sự thịnh vượng nhưng lại quay lưng với khổ đau.
66. Chớ gì chúng ta đừng đắm chìm vào những vực sâu ấy, mà hãy noi gương người Sa-ma-ri-a Nhân hậu! Dụ ngôn của Đức Giê-su kêu mời chúng ta tái khám phá ơn gọi bản thân như những công dân của các quốc gia tương ứng và của toàn thế giới, cũng như những người dựng xây tình liên đới xã hội mới. Lời gọi mời này luôn mới mẻ, nhưng nó dựa trên một quy luật căn bản nơi hữu thể con người: chúng ta được kêu mời điều hướng xã hội theo đuổi công ích và ghi nhớ mục đích này mà kiên trì củng cố trật tự chính trị-xã hội, kết cấu liên hệ cũng như các mục tiêu nhân bản của nó. Người Sa-ma-ri-a Nhân hậu đã chứng tỏ qua các hành động của mình rằng “Hiện hữu của mỗi cá nhân và mọi cá thể đều gắn kết sâu đậm với hiện hữu của tha nhân: cuộc sống không đơn giản chỉ là thời gian trôi qua; mà cuộc sống chính là thời gian dành cho những tương tác” [57].
67. Dụ ngôn trình bày một cách hùng hồn quyết định căn bản mà chúng ta cần thực hiện để xây dựng lại thế giới đang thương tổn của mình. Đối diện với quá nhiều đau đớn và khổ sầu, nên noi gương người Sa-ma-ri-a Nhân hậu là con đường duy nhất của chúng ta. Bất cứ quyết định nào khác đều khiến chúng ta trở thành một kẻ trong bọn trộm cướp hoặc một trong những người băng qua mà không chút thương cảm trước đau khổ của người bị nạn bên vệ đường. Dụ ngôn cho chúng ta thấy một cộng đồng có thể được tái thiết ra sao nhờ mọi người, đàn ông hay phụ nữ, biết hoà mình vào niềm đau, dễ bị tổn thương của tha nhân, biết gạt bỏ sự việc tạo ra một xã hội loại trừ, nhưng thay vào đó, hành động như người lân cận, nâng đỡ và trợ giúp những ai sa ngã hồi phục vì công ích. Đồng thời, chúng ta được cảnh báo về thái độ của người chỉ biết nghĩ đến bản thân và không chung vai gánh vác những trách nhiệm quen thuộc trong cuộc sống đang diễn ra.
68. Câu chuyện dụ ngôn rõ ràng không nghiêng theo giáo thuyết luân lý trừu tượng, và thông điệp của nó cũng không chỉ mang tính xã hội-đạo đức. Nó nói với chúng ta về một khía cạnh thiết yếu, nhưng thường bị lãng quên của tính nhân loại chung: chúng ta được tạo dựng cho sự viên mãn, mà điều này chỉ có thể tìm thấy nơi tình yêu. Chúng ta chẳng thể nào dửng dưng với khổ đau; cũng không thể để bất cứ ai đi ngang qua cuộc đời mình như một kẻ bị ruồng bỏ. Thay vào đó, chúng ta nên cảm thấy phẫn nộ, tự thách thức bản thân ngõ hầu thoát khỏi tình trạng cô lập tiện nghi và biến đổi mình nhờ liên đới với những đau khổ con người. Đây chính là ý nghĩa của phẩm giá.
Một câu chuyện được kể lại không ngừng
69. Dụ ngôn trên rõ ràng và trực diện, nhưng nó cũng gợi lên cuộc tranh đấu nội tâm mà mỗi người đều cảm nghiệm được, khi chúng ta dần dần hiểu chính bản thân qua các mối tương quan với anh chị em mình. Không sớm thì muộn, hết thảy chúng ta đều sẽ gặp một người khổ đau, mà ngày nay, càng ngày họ càng nhiều thêm. Quyết định đón nhận hoặc loại trừ ai bị thương nằm bên vệ đường có thể dùng làm tiêu chuẩn để đánh giá mọi đề án kinh tế, chính trị, xã hội và tôn giáo. Mỗi ngày, chúng ta phải quyết định trở thành người Sa-ma-ri-a Nhân hậu hay kẻ bàng quan hửng hờ. Và nếu chúng ta mở rộng tầm nhìn vào lịch sử của đời mình và của cả thế giới, thì tất cả chúng ta đều đồng dạng, hoặc từng tương đồng, hay giống các nhân vật trong dụ ngôn này. Hết thảy chúng ta đều mang dáng dấp trong mình một điều gì đó của người bị thương, một điều gì đó của kẻ cướp, một điều gì đó của những ai qua đường, và một điều gì đó của người Sa-ma-ri-a Nhân hậu.
70. Đáng chú ý là các nhân vật khác nhau trong câu chuyện thay đổi rao sao, khi đã từng đối diện với cảnh tượng đau đớn của người đàn ông khốn khổ bên vệ đường. Những phân biệt giữa người Giu-đê-a và người Sa-ma-ri-a, giữa thầy tư tế và nhà lái buôn, mờ nhạt dần về mặt ý nghĩa. Hiện giờ chỉ còn hai loại người: người chăm sóc một ai đó đang bị thương tích và những người đi ngang qua; những người cúi xuống giúp đỡ và những người nhìn hướng khác mà vội vàng bỏ đi. Lúc này, mọi phân biệt, mọi nhãn mác và mặt nạ của chúng ta đều biến mất: khoảnh khắc sự thật là đây. Liệu chúng ta có cúi xuống để chạm vào và chữa lành vết thương của người khác không? Liệu chúng ta có cúi xuống và giúp người khác trỗi dậy chăng? Đây là thách đố hôm nay, nhưng chúng ta đừng nên lo sợ khi đối diện với nó. Trong những thời điểm khủng hoảng, các quyết định trở nên cấp thiết. Có thể nói ở đây và ngay lúc này rằng bất cứ ai chẳng phải kẻ cướp hay khách bộ hành, đều là người bị thương hoặc đang mang người bị thương trên vai.
71. Câu chuyện về người Sa-ma-ri-a Nhân hậu được nhắc đi nhắc lại không ngừng. Chúng ta có thể thấy điều này rõ rệt khi tính trì trệ chính trị và xã hội đang biến nhiều nơi trên thế giới thành một đường phụ hoang vắng, ngay cả những lúc tranh chấp quốc gia và quốc tế, cũng như việc cướp mất cơ hội đang khiến quá nhiều người bị bỏ rơi vất vưởng bên lề đường. Trong dụ ngôn, Đức Giê-su không đưa ra những lựa chọn thay thế; Người không hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu người đàn ông bị thương hoặc người đã giúp ông ta quay sang tức giận hoặc mong muốn trả thù. Đức Giê-su tin tưởng vào sự thiện hảo cao quý nơi tinh thần của con người; qua dụ ngôn này, Người khích lệ chúng ta nhẫn nại trong yêu thương, khôi phục phẩm giá cho những ai đau khổ và dựng xây một xã hội xứng danh hơn.
Các nhân vật trong câu chuyện
72. Dụ ngôn khởi đầu với bọn trộm cướp. Đức Giê-su chọn cách bắt đầu câu chuyện khi vụ cướp đã xảy ra, kẻo chúng ta cứ chăm chăm vào chính tội ác hoặc những trên trộm phạm tội. Tuy nhiên, chúng ta biết rõ các tình tiết này. Khi bước vào thế giới của mình, chúng ta nhìn thấy những bóng đen của sự bỏ rơi và bạo lực nhằm phục vụ cho các quyền lợi nhỏ mọn của thế lực, lợi lộc và chia rẽ. Câu hỏi thực sự là: liệu chúng ta sẽ bỏ rơi người bị thương để chạy tìm nơi trú thân thoát khỏi bạo lực, hay sẽ truy đuổi bọn trộm cướp? Liệu kết cuộc người đàn ông bị thương trở thành luận chứng biện minh cho các chia rẽ chẳng thể nào hàn gắn, sự thờ ơ tàn nhẫn và xung đột nội bộ của chúng ta chăng?
73. Kế đến, dụ ngôn yêu cầu chúng ta xem xét kỹ hơn những người qua đường. Sự bồn chồn dửng dưng khiến họ băng qua bên kia đường – dù vô tội hay không, do khinh bỉ hay chỉ vì lơ đễnh – đều biến vị tư tế và thầy Lê-vi thành một hình tượng phản ảnh đáng buồn của hố sâu ngăn cách ngày càng lớn giữa chúng ta với thế giới xung quanh. Vô số cách thức bước qua vẫn giữ khoảng cách an toàn: chúng ta có thể thu mình lại, phớt lờ tha nhân, hoặc dửng dưng trước cảnh ngộ của họ. Hoặc chỉ đơn giản ngó lơ, như tại một số quốc gia hay bộ phận nào đó lộ rõ sự khinh miệt đối với người nghèo và văn hóa họ, hơn nữa, người ta nhìn đi chỗ khác như thể một kế hoạch phát triển được du nhập từ bên ngoài sẽ đẩy họ ra. Đây là lối biện minh của một số người về sự thờ ơ bản thân: dù những lời nài xin giúp đỡ của người nghèo có chạm đến trái tim họ chăng nữa, đơn giản, người nghèo không hề tồn tại. Người nghèo nằm ngoài phạm vi lợi ích của họ.
74. Về những người qua đường, ta thấy một chi tiết nổi bật và không nên bỏ qua: họ đạo đức, tận tâm thờ phượng Chúa như vị tư tế và thầy Lê-vi. Điều này cho thấy niềm tin vào Thiên Chúa và việc thờ phượng Người không đủ để bảo đảm rằng chúng ta đang thực sự sống đẹp lòng Chúa. Một tín hữu có thể không chân thật với mọi điều mà đức tin đòi hỏi nơi mình, nhưng vẫn nghĩ tưởng rằng họ đang gần gũi với Thiên Chúa và tốt lành hơn tha nhân. Mặt khác, thật sự mở rộng tâm hồn với Chúa đảm bảo cho đời sống đức tin, mà nó còn giúp chúng ta cởi mở với anh chị em nữa. Về điều này, Thánh Gio-an Kim Khẩu diễn tả một cách sắc, khi thách thức các Kitô hữu lắng nghe ngài dạy: “anh chị em muốn tôn vinh thân thể của Đấng Cứu Độ không? Nếu vậy, đừng khinh chê khi nó trần truồng. Đừng tôn vinh nó trong nhà thờ với lễ phục tơ lụa, trong khi bên ngoài, nó trần truồng và tê cóng vì lạnh” [58]. Nghịch lý thay, ai tự cho mình là người không tin, thì đôi khi thực hành ý Chúa tốt hơn các tín hữu.
75. “Bọn trộm cướp” thường tìm đồng minh bí mật trong số người “qua đường và nhìn hướng đi khác”. Có tương tác nào đó tồn tại giữa những kẻ thao túng và lừa đảo xã hội, cũng như ai tự cho mình là người chỉ trích khách quan, vô tư, nhưng thực chất đang sống nhờ dựa vào hệ thống đó và các lợi ích của nó. Một đạo đức giả đáng buồn khi quyền đặc miễn tội phạm, lợi dụng các định chế cho lợi lộc cá nhân hoặc tập đoàn, và những tệ nạn khác dường như không thể diệt trừ được, thường lại đi kèm với việc chỉ trích mọi chuyện tàn nhẫn, không ngừng gieo rắc nghi ngờ dẫn đến sự bất tín và rối ren. Khiếu nại cho rằng “mọi thứ đều hư hỏng” được trả lời bằng chủ trương: “không thể sửa chữa” hoặc “tôi có thể làm gì được?” Điều này càng làm gia tăng sự vỡ mộng và tuyệt vọng, đồng thời khó mà khích lệ tinh thần liên đới và quảng đại. Đẩy con người xuống tận tuyệt vọng, đóng sập lại vòng xoay ngoan cố bạo tàn: đây là nghị trình của nền chuyên chính độc tài vô hình chất chứa quyền lợi ẩn tàn, khi giành được quyền làm chủ cả các nguồn tài nguyên lẫn khả thể suy nghĩ và bày tỏ ý kiến.
76. Sau hết, chúng ta cùng hướng về người bị thương. Như ông ấy, nhiều lúc chúng ta cảm thấy bị tổn thương nặng nề và bị bỏ rơi bên vệ đường. Cũng vậy, chúng ta cảm thấy bất lực vì các định chế của mình bị bỏ bê và thiếu nguồn liệu, hoặc chỉ đơn giản phục vụ lợi ích cho số ít, bên ngoài lẫn bên trong. Thật vậy, “xã hội toàn cầu hóa thường chuyển dịch lối nhìn một cách tao nhã. Dưới vỏ bọc của nền chính trị đúng đắn hay ý thức hệ hợp thời thượng, chúng ta chỉ đứng nhìn những ai đau khổ mà chẳng hề xoa dịu họ. Chúng ta truyền hình trực tiếp các hình ảnh của họ, thậm chí nói về họ bằng ngôn từ mỹ miều và đầy khoan dung biểu kiến” [59].
Bắt đầu lại
77. Mỗi ngày đều mang đến cho chúng ta một cơ hội mới, một khả thể mới. Chúng ta không nên kỳ vọng mọi thứ từ những người điều hành đất nước, vì hẳn nó quá trẻ con. Chúng ta có không gian cần thiết để cùng chịu trách nhiệm kiến tạo và áp dụng các diễn trình cũng như biến chuyển mới. Chúng ta hãy tham gia tích cực vào việc đổi mới và hỗ trợ mọi xã hội đang hỗn loạn của mình. Hôm nay, chúng ta có cơ hội quý giá để diễn đạt cảm thức bẩm sinh về tình huynh đệ, trở thành những người Sa-ma-ri-a Nhân hậu, mà họ là người gánh nỗi đau trắc trở của tha nhân, thay vì xúi giục lòng căm thù và oán hận lớn hơn. Tựa như vị khách bộ hành tình cờ trong dụ ngôn, chúng ta chỉ cần có lòng khao khát đơn sơ thuần khiết trở nên một dân tộc, một cộng đồng liên lỉ và bền bỉ nỗ lực không loại trừ, biết hòa nhập và nâng đỡ những ai vấp ngã. Có lẽ, chúng ta thường thấy mình rơi vào não trạng của kẻ bạo lực, tham vọng mù quáng, rắc gieo ngờ vực và dối trá. Người khác có thể vẫn tiếp tục nhìn chính trị hoặc kinh tế như một đấu trường cho những cuộc chơi quyền lực của họ. Còn về phần mình, chúng ta hãy cổ vũ điều gì tốt lành và hết lòng phục vụ nó.
78. Chúng ta có thể khởi sự từ bên dưới (hạ khởi) và tùy từng trường hợp mà hành động trên bình diện địa phương cụ thể nhất, rồi sau đó mở rộng đến những vùng xa xôi nhất của đất nước cũng như thế giới, bằng sự quan tâm, chăm sóc tương tự mà người Sa-ma-ri-a đã biểu lộ cho mỗi vết đau của người bị thương. Chúng ta hãy tìm kiếm tha nhân và ôm trọn thế giới như chính nó, đừng sợ đau đớn hay cảm thức bất tương xứng, vì nơi đó chúng ta sẽ khám phá ra tất cả những thiện hảo mà Thiên Chúa đã gieo trồng trong tâm hồn con người. Nguy khó tưởng chừng quá sức lại trở thành cơ hội tiến triển, chứ chẳng phải là lý do bào chữa cho nỗi cam chịu rầu rĩ mà có thể chỉ dẫn đến sự tùng phục. Tuy nhiên, chúng ta đừng làm điều này một mình với tư cách cá nhân. Người Sa-ma-ri-a đã tìm ra chủ quán trọ ân cần chăm sóc người mắc nạn; cũng vậy, chúng ta được kêu mời đoàn kết như một gia đình lớn mạnh hơn cả tổng số thành viên cá thể nhỏ bé. Vì “toàn thể to lớn hơn bộ phận, nhưng nó cũng nhiều hơn tổng số bộ phận của nó” [60]. Chúng ta hãy từ bỏ tính nhỏ nhen và nỗi phẫn uất từ cuộc nội chiến vô bổ, cũng như tình trạng đối đầu không ngừng. Chúng ta hãy ngưng việc thương hại bản thân mà hãy thừa nhận tội ác, tính lãnh đạm, dối trá của mình. Việc chuộc lỗi và hòa giải sẽ mang lại cho chúng ta cuộc sống mới và giải thoát chúng ta khỏi nỗi sợ hãi.
79. Người Sa-ma-ri-a đã dừng lại dọc đường và ra đi mà chẳng mong đợi bất cứ sự công nhận hay lòng biết ơn nào. Nỗ lực giúp đỡ người khác khiến ông hài lòng khôn tả trong cuộc sống cũng như trước thiên nhan Chúa, và vì vậy nó trở thành một nghĩa vụ. Hết thảy chúng ta đều có trách nhiệm đối với những ai bị thương, đối với đồng hương của mình và mọi dân nước trên mặt đất này. Chúng ta hãy quan tâm đến nhu cầu của tất cả, nam hay nữ, trẻ tuổi hay già nua, với cùng một tinh thần huynh đệ ân cần chăm sóc và gần gũi mà chúng đã khắc hoạ nên người Sa-ma-ri-a Nhân hậu.
Những người thân cận không biên giới
80. Đức Giê-su kể dụ ngôn người Sa-ma-ri-a Nhân hậu nhằm trả lời cho nghi vấn: Ai là người thân cận của tôi? Trong xã hội thời Đức Giê-su, cụm từ “người thân cận” thường nói tới những ai gần kề chúng ta nhất, và cảm thấy rằng sự giúp đỡ chủ yếu dành cho người cùng nhóm và cùng sắc tộc thôi. Đối với một số người Do Thái thời ấy, người Sa-ma-ri-a bị xem thường và bị cho là ô uế/nhơ bẩn. Họ không thuộc số người phải được giúp đỡ. Bản thân là một người Do Thái, nhưng Đức Giê-su thay đổi hoàn toàn lối tiếp cận này. Người yêu cầu chúng ta không nên quyết định xem ai đủ gần gũi để trở thành người thân cận, mà đúng hơn chính chúng ta phải trở thành người thân cận với hết mọi người.
81. Đức Giê-su yêu cầu chúng ta hiện diện với những ai đang cần giúp đỡ, bất luận họ thuộc nhóm xã hội chúng ta hay không. Trong trường hợp này, người Sa-ma-ri-a trở thành hàng xóm của người Giu-đê-a bị thương. Bằng cách tiến lại gần và sẵn sàng có mặt, ông đã vượt qua mọi rào cản về văn hóa-lịch sử. Kết thúc dụ ngôn, Đức Giê-su nói: “Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10, 37). Nói cách khác, Người thách thức chúng ta gạt bỏ mọi dị biệt và dù đứng trước đau khổ thì cũng dám tiến lại gần tha nhân mà không gạn hỏi điều gì. Tôi không còn nói mình có người thân cận để giúp đỡ, nhưng chính tôi phải là người thân cận đối với người khác.
82. Tuy dụ ngôn này có chút rắc rối, bởi vì Đức Giê-su nói rằng người bị thương xuất thân từ Giu-đê-a, trong khi người dừng lại và giúp đỡ ông ấy lại là người Sa-ma-ri-a. Chi tiết này khá quan trọng đối với suy tư về một tình yêu không loại trừ ai nơi chúng ta. Người Sa-ma-ri-a sinh sống tại vùng đất thực hành các lễ nghi ngoại giáo, nên đối với người Do Thái, điều này khiến người Sa-ma-ri-a trở nên ô uế, đáng ghét và nham hiểm. Trên thực thế, một bản văn Do Thái cổ đã đề cập đến các quốc gia bị ghét bỏ, nói về vùng Sa-ma-ri-a “thậm chí không phải là một dân tộc” (Hc 50, 25), và cũng thường được nhắc tới như thể “đám dân ngu xuẩn ở vùng Si-khem” (50, 26).
83. Điều này giải thích tại sao một phụ nữ Sa-ma-ri-a, khi được Đức Giê-su xin nước uống, lại trả lời cộc lốc: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri-a, cho ông nước uống sao?” (Ga 4, 9). Lời buộc tội xúc phạm nhất mà nếu ai đó muốn tìm cách làm Đức Giê-su mất uy tín thì có thể gán ghép Người là “người Sa-ma-ri-a” và đã “bị quỷ ám” (Ga 8, 48). Vì vậy, cuộc gặp gỡ của lòng nhân từ này giữa một người Sa-ma-ri-a và một người Do Thái mang tính khiêu khích cao; nó không chừa chỗ cho sự thao túng ý thức hệ và thách thức chúng ta mở rộng ranh giới bản thân. Nó vạch ra chiều kích phổ quát cho ơn gọi yêu thương của chúng ta, một chiều kích vượt trên mọi định kiến, mọi rào cản lịch sử-văn hóa, và mọi quyền lợi nhỏ nhen.
Lời nài xin của người khách lạ
84. Cuối cùng, tôi xin lưu ý rằng trong một đoạn Tin Mừng khác, Đức Giê-su nói: “Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước” (Mt 25, 35). Đức Giê-su có thể nói những lời đó, bởi lẽ Người luôn rộng lòng, nhạy cảm trước mọi khó khăn của tha nhân. Thánh Phao-lô thúc giục chúng ta “hãy vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12, 15). Một khi trái tim chúng ta làm được điều này, thì chúng có khả năng đồng nhất với người khác mà chẳng cần bận tâm lo lắng về nơi họ chào đời hoặc họ từ đâu tới. Trong tiến trình đó, chúng ta sẽ cảm nhận tha nhân như “chính cốt nhục của mình vậy” (Is 58, 7).
85. Đối với Ki-tô hữu, lời giảng dạy của Đức Giê-su mang ý nghĩa thâm thuý hơn. Lời Người buộc chúng ta nhận ra chính Đức Ki-tô nơi mỗi người anh chị em bị bỏ rơi hoặc bị loại trừ (x. Mt 25, 40. 45). Đức tin có năng lực vô hạn, ngõ hầu truyền cảm hứng và duy trì lòng tôn trọng của chúng ta đối với tha nhân, vì những người tín hữu biết rằng Thiên Chúa yêu thương mọi người, nam hay nữ, bằng một tình yêu vô biên và “do đó trao ban phẩm giá vô hạn cho nhân loại” [61]. Tương tự, chúng ta tin rằng Đức Ki-tô đã đổ máu mình vì mỗi người chúng ta và không ai nằm ngoài phạm vi tình yêu phổ quát của Người. Nếu chúng ta tiến đến cội nguồn tận cùng của tình yêu vốn chính là sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi ấy, thì chúng ta sẽ diện kiến nơi cộng đoàn Ba Ngôi Thiên Chúa nguồn gốc và hình mẫu hoàn hảo của mọi cuộc sống xã hội. Như thế, thần học tiếp tục được trở nên phong phú nhờ suy tư về chân lý vĩ đại này.
86. Nhờ điều này, đôi khi tôi tự hỏi tại sao phải mất quá lâu để Giáo hội dứt khoát lên án chế độ nô lệ và các hình thức bạo lực khác. Ngày nay, với nền linh đạo và thần học phát triển, thì chẳng có lý do gì để chúng ta bào chữa cả. Tuy nhiên, vẫn có người dường như cảm thấy được khuyến khích hoặc ít nhất được đức tin của họ cho phép ủng hộ hàng loạt chủ nghĩa duy dân tộc hẹp hòi và bạo lực, bài ngoại và khinh miệt, thậm chí cả việc ngược đãi những người khác biệt. Đức tin, và chủ nghĩa nhân bản được đức tin truyền cảm hứng, phải duy trì một cảm thức phê bình khi đối diện với các khuynh hướng này, và phản ứng ngay lập tức, bất cứ lúc nào chúng xuất đầu lộ diện. Vì lý do này, thật quan trọng khi dạy giáo lý và thuyết giảng phải nói trực tiếp và rõ ràng hơn về ý nghĩa xã hội của hiện sinh, chiều kích tình mến huynh đệ trong linh đạo, xác tín bản thân về phẩm giá bất khả chuyển nhượng của mỗi con người, đồng thời trình bày về các lý do khiến chúng ta yêu thương và chấp nhận tất cả là anh chị em mình.
CHƯƠNG III
TIÊN KIẾN VÀ DỰNG XÂY MỘT THẾ GIỚI CỞI MỞ
87. Con người được tạo dựng theo cách họ không thể sống, phát triển và tìm ra sự trọn vẹn, trừ phi họ “trở nên món quà tự hiến chân thành cho tha nhân” [62]. Họ cũng chẳng thể nào hiểu biết đầy đủ về bản thân, nếu không gặp gỡ người khác: “Tôi chỉ thông đạt hữu hiệu với chính mình trong chừng mực tôi thông đạt với người khác mà thôi” [63]. Không ai có thể cảm nghiệm được vẻ đẹp chân chính nơi cuộc sống mà không kết nối với tha nhân, và cũng không thực sự yêu thương. Đây chính là một phần mầu nhiệm của hiện sinh nhân vị đích thật. “Sự sống hiện hữu ở nơi chứa chan tình gắn bó, niềm hiệp thông, tình mến huynh đệ; và sự sống thì mạnh liệt hơn cái chết khi nó được kiến tạo dựa trên những mối liên hệ đúng đắn và kết nối thủy chung. Trái lại, sự sống sẽ chẳng tồn tại khi chúng ta tự cho mình độc lập và sống như những hòn đảo: trong các thái độ này, sự chết chiếm ưu thế” [64].
VƯỢT LÊN CHÍNH CHÚNG TA
88. Trong sâu thẳm mỗi tâm hồn, tình mến tạo ra mối gắn kết và mở rộng hiện hữu, vì nó lôi kéo con người ra khỏi chính mình và hướng tới tha nhân [65]. Vì chúng ta được tạo dựng để yêu thương, nên trong mỗi chúng ta xem ra đều có “luật ra khỏi bản thân” (ekstasis) vận hành: “người yêu ‘bước ra khỏi’ chính mình để tìm thấy sự hiện hữu trọn vẹn hơn nơi một người khác” [66]. Vì vậy, “con người luôn phải đón nhận thách đố vượt lên chính bản thân” [67].
89. Tôi không thể giản lược cuộc sống mình thành các mối liên hệ với một nhóm nhỏ, thậm chí với gia đình riêng; tôi chẳng thể nào biết bản thân nếu nằm ngoài mạng lưới kết nối rộng lớn hơn, bao gồm cả những mối tương quan trước đây định hình cho cuộc đời tôi. Mối liên hệ của tôi với những ai tôi tôn trọng phải lưu ý đến thực tế là họ không sống chỉ vì tôi, và tôi cũng không sống chỉ vì họ. Những mối tương quan của chúng ta, nếu lành mạnh và chân thật, sẽ giúp chúng ta cởi mở đón nhận người khác, mà họ vốn giúp chúng ta rộng mở và phong phú hơn. Ngày nay, cảm thức xã hội cao quý nhất của chúng ta dễ dàng bị giản lược thành những cuộc tán gẫu đặt mình làm trung tâm mà lại chuộng vẻ bề ngoài của các mối quan hệ sâu sắc. Trái lại, tình yêu đích thực và trưởng thành, cũng như tình bạn chân chính chỉ có thể bén rễ sâu trong tâm hồn rộng mở, hầu thăng tiến nhờ vào các mối tương quan với người khác. Với vai trò vợ chồng hay bạn hữu, chúng ta nhận thấy con tim mình mở rộng một khi ra khỏi bản thân mà đón nhận tha nhân. Các nhóm khép kín và nhiều cặp vợ chồng chỉ quan tâm đến mình, tự xác nhận đối lập với người khác, thì họ lại thường bộc lộ tính ích kỷ và đơn thuần chỉ bảo toàn bản thân.
90. Đáng lưu ý là nhiều cộng đồng nhỏ lẻ cư ngụ tại các vùng sa mạc đã phát triển một hệ thống nổi bật tiếp đón khách hành hương như thực thi nghĩa vụ hiếu khách thánh thiêng. Các cộng đoàn đan tu thời Trung cổ cũng làm tương tự, như chúng ta thấy trong Luật Dòng của Thánh Bê-nê-đíc-tô. Dù thừa nhận rằng điều này có lẽ làm sao lãng kỷ luật và bầu khí tĩnh lặng nơi các đan viện, nhưng Thánh nhân vẫn nhấn mạnh: “người nghèo và khách hành hương phải được đối xử hết sức ân cần và chu đáo” [68]. Niềm nở hiếu khách là một phương cách đặc thù chấp nhận thách thức và trở nên tặng phẩm hiện diện trong cuộc gặp gỡ với những ai bên ngoài vòng kết nối của mình. Các đan sĩ nhận ra rằng những giá trị họ tìm cách vun trồng phải song hành với tinh thần sẵn sàng vượt lên bản thân, ngõ hầu cởi mở với tha nhân.
Giá trị độc đáo của lòng bác ái
91. Người ta có thể phát triển một số thói quen nào đó trông giống các giá trị đạo đức: mạnh mẽ, tiết độ, cần mẫn và những nhân đức tương tự. Tuy nhiên, nếu các hành vi nhân đức luân lý khác nhau được hướng dẫn đúng đắn, thì cần phải lưu ý đến mức độ mà chúng cổ vũ tính cởi mở và kết hiệp với tha nhân. Điều này khả hữu nhờ đức ái mà Thiên Chúa đã trao ban. Không có bác ái, chắc chúng ta chỉ sở hữu nhân đức biểu kiến, chẳng thể nào duy trì đời sống chung được. Vì vậy, Thánh Tô-ma A-qui-nô đã nói, khi trích dẫn lời Thánh Âu-gus-ti-nô, rằng tính khí của người tham lam không cách nào trở nên nhân đức được [69]. Về phần mình, Thánh Bô-na-ven-tu-ra giải thích nếu không có đức ái, thì các nhân đức khác nói đúng ra là chưa chu toàn các giới răn “theo cách Chúa muốn chúng được hoàn thành” [70].
92. Tầm vóc tinh thần của đời người được đo bằng lòng bác ái, mà sau cùng nó vẫn là “tiêu chuẩn quyết định dứt khoát về giá trị hay vô giá trị của đời người” [71]. Tuy nhiên, một số tín hữu nghĩ rằng nó hệ tại ở việc áp đặt ý thức hệ riêng của họ lên hết thảy mọi người, hoặc bao gồm hành động bảo vệ chân lý một cách bạo lực, hay trong những cuộc biểu dương sức mạnh đầy ấn tượng. Trong tư cách tín hữu, tất cả chúng ta cần phải nhìn nhận lòng bác ái chiếm vị trí hàng đầu: bác ái chẳng bao giờ được đặt vào thế nguy biến, và nguy hiểm cam go nhất chính là việc không yêu thương (x. 1Cr 13, 1-13).
93. Thánh Tô-ma A-qui-nô đã tìm cách mô tả tình yêu mà nhờ ơn thánh Chúa biến chuyển chúng ta dám ra khỏi bản thân hướng tới tha nhân, bằng cách nhìn nhận "họ được kết hợp phần nào với chính mình” "[72]. Xúc cảm chúng ta dành cho người khác khiến mình tự do khao khát tìm kiếm điều tốt lành cho họ. Tất cả những điều này bắt nguồn từ cảm thức quý trọng, ngưỡng mộ giá trị nơi tha nhân. Nói cho cùng, đây chính là ý niệm ẩn sâu của cụm từ “bác ái”: những ai được yêu quý quá “trìu mến” với tôi, “họ được đánh giá rất cao” [73]. Và “nhờ tình yêu đó mà người làm đẹp lòng (grata) người khác là lý do tại sao người này trao lại một thứ gì đó cách nhưng không (gratis)” [74].
94. Như vậy, bác ái hơn cả một chuỗi hành động từ thiện. Những hành động này bắt nguồn từ sự kết hợp tiệm tiến hướng tới tha nhân, coi trọng giá trị, tính xứng đáng, hoà nhã và đẹp đẽ nơi họ, bất chấp dáng vẻ thể lý hay đạo đức của họ. Lòng mến của chúng ta đối với người khác, với chính con người hiện thực của họ, thúc đẩy chúng ta tìm kiếm điều tốt đẹp nhất cho cuộc sống họ. Chỉ bằng cách vun đắp phương thức liên hệ này với nhau, chúng ta mới tạo ra tình hữu nghị xã hội không loại trừ ai và tình mến huynh đệ rộng mở chào đón mọi người.
TÌNH MẾN LUÔN MÃI RỘNG MỞ HƠN
95. Lòng mến cũng thúc đẩy chúng ta hướng tới niềm hiệp thông phổ quát. Không ai có thể trưởng thành hoặc tìm thấy sự trọn vẹn tròn đầy bằng cách tự cô lập mình cả. Bởi lẽ tự bản chất, tình mến gọi mời trưởng thành trong tính cởi mở, và khả năng chấp nhận tha nhân như thể một phần của chặng đường phiêu lưu bền bỉ, mà nó hướng mọi vùng ngoại vi tới cảm thức cao quý hơn của việc thuộc về nhau. Như Đức Giê-su từng nói với chúng ta: “Các con đều là anh (chị) em” (Mt 23, 8).
96. Nhu cầu vượt lên giới hạn bản thân cũng áp dụng thực tế tại các khu vực và quốc gia khác nhau. Thật vậy, “số lượng kết nối tương tác và truyền thông trong thế giới hôm nay ngày càng gia tăng, khiến chúng ta ý thức mạnh mẽ hơn về tính hiệp nhất và vận mệnh chung của mọi dân nước. Trong những biến động lịch sử, cũng như sự đa dạng từ các nhóm sắc tộc, xã hội và nền văn hóa, chúng ta chứng kiến vô vàn hạt giống ơn gọi ươm trồng, hình thành nên một cộng đồng bao gồm hết thảy anh chị em biết đón nhận và chăm sóc lẫn nhau” [75].
Xã hội cởi mở giúp mọi người hòa nhập
97. Một số vùng ngoại vi ở gần chúng ta, tại các trung tâm đô thị hoặc trong gia đình chúng ta. Và khía cạnh cởi mở phổ quát trong tình mến mang tính hiện sinh hơn khoảng cách địa lý. Nó liên quan đến nỗ lực hằng ngày của chúng ta, mong muốn mở rộng vòng xoay nối kết bạn bè, vươn tới những ai, cho dù thân cận với tôi, nhưng không hiển nhiên tôi xem họ như một phần thuộc về mối quan tâm khép kín của tôi. Mỗi anh chị em gặp khó khăn, khi bị xã hội nơi tôi đang sống bỏ rơi hoặc phớt lờ, đều trở thành một người ngoại kiều đang hiện hữu, mặc dù được sinh ra trong cùng một đất nước. Có thể họ là công dân với đầy đủ quyền lợi, nhưng họ bị đối xử như khách ngoại kiều ngay trong chính đất nước họ. Phân biệt chủng tộc là một loại vi-rút đột biến nhanh chóng và thay vì biến mất, nó chỉ ẩn mình và chờ tái xuất.
98. Tôi muốn đề cập đến một số “người lưu vong giấu mặt” bị đối đãi như những bộ phận ngoại nhân trong xã hội [76]. Nhiều người khuyết tật “cảm thấy họ hiện hữu nhưng không thuộc về ai và chẳng được dự phần nào cả”. Họ hầu hết vẫn bị ngăn cản quyền bầu cử hoàn toàn. Mối quan tâm của chúng ta không những chỉ chăm sóc họ mà còn phải bảo đảm cho họ “tham gia tích cực vào cộng đồng dân sự và giáo hội. Đây là một diễn trình đòi hỏi và thậm chí mệt mỏi chán chường, nhưng nó sẽ dần dần góp phần vào công cuộc đào tạo lương tâm, trang bị khả năng biết nhìn nhận mỗi cá nhân là một con người độc nhất vô nhị”. Tôi cũng nghĩ tới “những cụ già, do họ khuyết tật nên đôi khi bị coi như gánh nặng”. Tuy nhiên, mỗi người trong số họ có thể cống hiến “một đóng góp độc đáo cho lợi ích chung qua các câu chuyện cuộc đời phi thường của họ”. Tôi xin nhắc lại: chúng ta cần “can đảm mang lại tiếng nói cho những ai bị kỳ thị do họ khuyết tật, bởi lẽ thật đáng buồn tại một số quốc gia ngay cả hiện nay, người ta vẫn thấy khó thừa nhận họ là những con người có phẩm giá bình đẳng” [77].
Những hiểu biết bất cập về tình mến phổ quát
99. Một tình yêu có khả năng vượt qua biên giới là cơ sở cho điều được gọi là “tình hữu nghị xã hội” ở mọi thành phố và quốc gia. Tình bạn xã hội chân chính trong một xã hội khiến cho tính cởi mở phổ quát đích thật trở nên khả hữu. Điều này khác xa với chủ nghĩa phổ quát sai lầm của những ai thường xuyên đi du lịch nước ngoài, bởi lẽ họ không thể bao dung hoặc yêu thương người dân của chính họ. Ai xem thường đồng bào mình hay có xu hướng tạo ra các chủng loại hạng nhất và hạng hai trong xã hội, những người có phẩm giá cao hơn hoặc kém hơn, những người được hưởng nhiều quyền hơn hoặc ít hơn, thì bằng cách này, họ phủ nhận nơi chốn dành cho hết thảy mọi người.
100. Chắc chắn, tôi không đề xuất chủ nghĩa phổ quát độc đoán và trừu tượng, mà nó được một nhóm nhỏ bày ra hoặc lên kế hoạch và được trình bày như lý tưởng nhằm để san bằng, thống trị và cướp bóc. Thực thế, mô hình toàn cầu hóa “rõ ràng nhắm tới sự đồng nhất phiến diện và tìm cách xóa bỏ mọi khác biệt cũng như truyền thống trong cuộc mưu cầu hợp nhất thiển cận… Nếu một loại toàn cầu hóa nào đó đòi biến mọi người trở nên đồng dạng, khiến ai nấy ngả nghiêng, thì thứ toàn cầu hóa ấy sẽ huỷ diệt những món quà phong phú cũng như nét độc đáo nơi mỗi con người và mỗi dân tộc” [78]. Chủ nghĩa phổ quát sai lầm này kết thúc với hành động tước đoạt thế giới đầy sắc màu đa dạng, vẻ đẹp xinh tươi và tận cùng là nhân tính của nó. Vì “tương lai không hề đơn sắc; nếu can đảm, chúng ta có thể chiêm ngắm nó trong mọi vẻ phong phú và đa dạng của những gì mà mỗi cá nhân nên cống hiến. Gia đình nhân loại chúng ta cần học hỏi chung sống hòa thuận và bình an nhiều dường bao, song tất cả chúng ta chẳng cần phải giống hệt nhau!” [79].
VƯỢT LÊN MỘT THẾ GIỚI “ĐỒNG HỘI, ĐỒNG THUYỀN”
101. Bây giờ chúng ta hãy trở lại dụ ngôn người Sa-ma-ri-a Nhân hậu, vì nó vẫn còn nhiều điều thông diễn cho chúng ta. Một người bị thương nằm bên vệ đường. Ai ai đi tới bước qua, nhưng chẳng hề lắng nghe lời hiệu triệu bên trong phải hành động như người lân cận; họ quan tâm đến nghĩa vụ, địa vị xã hội, vị thế nghề nghiệp trong xã hội. Họ cho mình là người quan trọng đối với xã hội đương thời, và lo lắng đóng vai trò thích hợp của bản thân. Người nằm bên vệ đường, đầy thương tích và bị bỏ rơi, là điều sao lãng, gián đoạn với tất cả chuỗi sự kiện đó; nhưng dù vậy đi nữa, ông ấy đâu có quan trọng gì. Ông ta “không là ai cả”, chẳng có gì nổi trội, chẳng can hệ gì đến kế hoạch tương lai của họ. Người Sa-ma-ri-a Nhân hậu vượt lên trên những phân loại hạn hẹp ấy. Bản thân ông không phù hợp với bất cứ phạm trù nào trong số đó; ông chỉ đơn thuần là một người ngoại kiều, chẳng có chỗ đứng trong xã hội. Thoát khỏi mọi nhãn hiệu và địa vị, ông có thể làm gián đoạn hành trình, thay đổi kế hoạch của mình và bất ngờ đến cứu một người bị thương đang cần ông giúp đỡ.
102. Ngày nay, phản ứng sẽ như thế nào trước câu chuyện tương tự như vậy, trong một thế giới không ngừng chứng kiến sự xuất hiện và phát triển của những nhóm xã hội bám riết vào một danh tính ngăn cách họ với những người khác? Nó sẽ ảnh hưởng ra sao với những ai tự mình tổ chức nhằm ngăn chặn bất kỳ dân ngoại kiều nào hiện diện, mà nó có thể đe dọa danh tính, các cơ cấu khép kín và tự quy chiếu của họ? Ở đây, ngay cả khả thể hoạt động như một người lân cận cũng bị loại trừ; chỉ làm hàng xóm láng giềng với những ai phục vụ mục đích của họ. Cụm từ “thân cận” mất hết mọi ý nghĩa; chỉ còn lại những “người đồng hội đồng thuyền”, các đối tác theo đuổi quyền lợi riêng tư mà thôi [80].
Tự do, bình đẳng và tình huynh đệ
103. Tình huynh đệ không những ra đời từ môi trường tôn trọng các quyền tự do cá nhân, hoặc thậm chí từ chính sách bình đẳng nào đó được chính phủ bảo đảm. Tình huynh đệ nhất thiết kêu gọi điều cao quý hơn, mà đến lúc nó nâng cao tự do và bình đẳng. Điều gì xảy ra khi tình huynh đệ không được vun đắp một cách có ý thức, khi thiếu ý chí chính trị cổ vũ nó qua việc giáo dục tình huynh đệ, qua đối thoại và qua việc công nhận các giá trị nơi tính hỗ tương và làm giàu lẫn nhau? Tự do lúc ấy sẽ chẳng là gì ngoài biến thành điều kiện sống cô lập như chúng ta mong muốn, hoàn toàn độc lập chọn lựa mình thuộc về ai hay điều gì, hoặc đơn giản là chiếm hữu hay lợi dụng. Lối hiểu nông cạn này chẳng ảnh hưởng đến sự phong phú của tự do, mà trên hết niềm tự do này hướng chúng ta tới tình mến.
104. Bình đẳng cũng không đạt được nhờ vào một bản tuyên ngôn trừu tượng cho rằng “tất cả mọi người, nam và nữ, đều bình đẳng như nhau”. Thay vào đó, nó là kết quả của nỗ lực vun đắp tình huynh đệ một cách ý thức và thận trọng. Những ai chỉ có khả năng làm “người đồng hội đồng thuyền” tạo ra các thế giới khép kín. Trong khuôn khổ ấy, đâu là nơi dành cho những người không thuộc nhóm đồng hội đồng thuyền của mình, nhưng vẫn mong muốn một cuộc sống tốt hơn cho bản thân và gia đình họ?
105. Chủ nghĩa cá nhân không làm chúng ta tự do hơn, bình đẳng hơn, huynh đệ hơn. Nguyên tổng số quyền lợi cá nhân mà thôi chưa đủ khả năng tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn cho toàn thể gia đình nhân loại được. Nó cũng không thể cứu chúng ta khỏi nhiều tệ nạn đang ngày càng lan rộng toàn cầu. Chủ nghĩa cá nhân cực đoan là loại vi-rút cực kỳ khó tận diệt, vì nó rất khôn khéo. Nó khiến chúng ta tin rằng mọi sự hệ tại ở việc thả lỏng các tham vọng riêng, như thể hễ cứ theo đuổi tham vọng lớn hơn bao giờ hết và tạo ra những mạng lưới an toàn, là chúng ta sẽ phục vụ lợi ích chung cách nào đó.
TÌNH MẾN PHỔ QUÁT THĂNG TIẾN CON NGƯỜI
106. Tình hữu nghị xã hội và tình huynh đệ phổ quát nhất thiết kêu gọi thừa nhận giá trị của mỗi con người nhân vị, luôn luôn và ở mọi nơi. Nếu mỗi cá nhân đều có giá trị cao quý như vậy, thì hẳn phải tuyên bố rõ ràng và chắc chắn rằng “nguyên thực trạng mà một số người sinh ra tại những nơi quá ít tài nguyên hơn hoặc kém phát triển hơn không biện minh cho thực tế mà trong đó họ đang sống với phẩm giá thấp hơn” [81]. Đây là nguyên tắc căn bản của đời sống xã hội, một đời sống có xu hướng bị làm ngơ qua vô vàn cách thức khác nhau, do những ai cảm thấy không phù hợp với thế giới quan của họ hoặc chỉ phục vụ các mục đích riêng mình.
107. Mọi hữu thể nhân vị (con người) đều có quyền được sống xứng đáng với nhân phẩm và phát triển toàn diện; quyền căn bản này không thể bị bác bỏ bởi bất kỳ quốc gia nào. Mọi người sở hữu quyền này ngay cả khi họ không sản xuất được chi, hoặc phát triển hay được sinh ra với nhiều hạn chế. Điều này chẳng làm giảm phẩm giá tuyệt vời nơi họ là những con người nhân vị, một phẩm giá không dựa trên hoàn cảnh, mà dựa trên giá trị nội tại của hữu thể con người họ. Trừ phi nguyên tắc căn bản này được đề cao, sẽ chẳng có tương lai cho tình huynh đệ hay cho sự tồn vong của nhân loại.
108. Một số xã hội chấp nhận phần nào nguyên tắc trên. Họ đồng ý cho rằng cơ hội nên dành cho mọi người, nhưng sau đó lại nói mọi sự tùy thuộc vào cá nhân. Từ quan điểm lệch lạc này, dễ dàng dẫn tới “hành vi chiếu cố đầu tư nỗ lực giúp đỡ những ai yếu thế hoặc kém tài năng, ngõ hầu họ tìm được cơ hội trong cuộc sống”, đây là điều vô nghĩa [82]. Các khoản đầu tư hỗ trợ những người dễ bị tổn thương có lẽ chẳng sinh lợi gì; chúng có thể làm cho mọi sự kém hiệu năng đi. Không. Điều thực sự cần thiết là các nhà nước và định chế dân sự, đang hiện diện và hoạt động, phải có tầm nhìn vượt lên trên cách vận hành tự do và hiệu năng của hệ thống kinh tế, chính trị hoặc ý thức hệ nào đó, đồng thời quan tâm chủ yếu đến từng cá nhân và công ích.
109. Một số được sinh ra trong các gia đình ổn định về kinh tế, hấp thụ nền giáo dục tốt, lớn lên được nuôi nấng chu đáo hoặc đã sở hữu tài năng thiên bẩm. Chắc chắn họ sẽ không cần đến một nhà nước chủ động; họ chỉ đòi hỏi tự do bản thân. Song, quy tắc tương đồng này hiển nhiên chẳng đời nào được áp dụng cho người khuyết tật, người sinh ra trong hoàn cảnh nghèo khó, những ai không có giáo dục tốt và ít được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe thỏa đáng. Nếu một xã hội được điều hành chủ yếu bởi các tiêu chuẩn tự do và hiệu năng của thị trường, thì sẽ chẳng có chỗ nào cho những người như vậy, và tình huynh đệ mãi mãi chỉ là lý tưởng mơ hồ khác nữa mà thôi.
110. Thật vậy, “đòi hỏi tự do kinh tế trong lúc những điều kiện thực tế ngăn cản người dân thật sự tiếp cận được với nó, và khi các khả thể công ăn việc làm tiếp tục bị thu hẹp, chính là lối thực hành kiểu nói nước đôi” [83]. Những từ ngữ như tự do, dân chủ hay tình huynh đệ trở nên vô nghĩa, vì lẽ thường tình “chỉ khi nào hệ thống kinh tế và xã hội chúng ta không còn tạo ra dù chỉ một nạn nhân, một người duy nhất bị gạt sang một bên, thì chúng ta mới có thể cử hành lễ hội tình huynh đệ phổ quát” [84]. Một xã hội thực sự nhân bản và huynh đệ sẽ có khả năng đảm bảo ổn định hữu hiệu, ngõ hầu nơi đó mỗi thành viên được đồng hành trong mọi giai đoạn cuộc sống. Chẳng những chu cấp các nhu cầu căn bản của họ, mà còn giúp họ cống hiến hết mình, mặc cho hiệu suất của họ chưa ở mức tối ưu, nhịp độ chậm hoặc hiệu năng của họ có giới hạn.
111. Với các quyền bất khả chuyển nhượng, tự bản chất, con người nhân vị vốn cởi mở với mọi tương quan. Khắc sâu trong chúng ta là lời mời gọi vượt lên chính mình nhờ gặp gỡ tha nhân. Vì vậy, “cần phải thận trọng để tránh rơi vào một số sai sót có thể phát sinh từ việc hiểu nhầm khái niệm nhân quyền và vận dụng sai lầm. Ngày nay xu hướng đòi hỏi các quyền lợi cá nhân – tôi muốn nói quyền lợi cá nhân chủ nghĩa – ngày càng lan rộng hơn. Ẩn sâu trong nó là quan niệm về con người nhân vị tách rời khỏi mọi bối cảnh xã hội và nhân chủng học, như thể con người là một “đơn tử” (monás), càng ngày càng chẳng liên quan đến tha nhân…Trừ phi quyền của mỗi cá nhân được sắp xếp hài hòa cho thiện ích cao quý hơn, thì kết cuộc những quyền ấy sẽ được coi là vô hạn và sau cùng trở thành nguồn gốc của xung đột và bạo động” [85].
CỔ VŨ THIỆN ÍCH ĐẠO ĐỨC
112. Cũng vậy, chúng ta không thể không đề cập đến việc tìm kiếm và theo đuổi thiện ích nơi tha nhân và toàn thể gia đình nhân loại ngụ ý giúp đỡ những cá nhân và xã hội trưởng thành trong các giá trị đạo đức nhằm thúc đẩy sự phát triển con người toàn diện. Tân Ước mô tả một trong nhiều hoa trái của Chúa Thánh Thần (x. Gl 5, 22) là từ tâm (agathosyne); chữ Hy Lạp này biểu đạt sự gắn bó với điều tốt lành, theo đuổi điều thiện hảo. Hơn nữa, nó còn gợi lên ý chí phấn đấu đạt đến sự tuyệt hảo và những gì tốt nhất cho tha nhân, giúp họ tiến triển trong sự chín chắn trưởng thành và sức khỏe, trau dồi các giá trị chứ không đơn thuần chỉ là phúc lợi vật chất. Một lối diễn tả tương tự cũng tồn tại trong tiếng Latinh: nhân từ (benevolentia). Đây là thái độ “mong muốn điều tốt lành” cho tha nhân; nó nói lên niềm khao khát hướng tới sự thiện hảo, thiên về mọi điều tốt đẹp và tuyệt hảo, mong mỏi làm cuộc sống người khác tràn đầy những gì đẹp đẽ, cao siêu và có tính dựng xây.
113. Đáng tiếc thay ở thời điểm này, tôi cảm thấy phải nhắc lại rằng “chúng ta đã trải qua đủ mọi thứ vô luân và nhạo báng đạo đức, lòng tốt, đức tin và trung thực. Đã đến lúc phải thừa nhận tính hời hợt nhẹ dạ không hề mang lại cho chúng ta điều gì tốt đẹp cả. Một khi nền tảng của đời sống xã hội bị xói mòn, điều xảy ra sau đó là các cuộc đấu đá tranh giành quyền lợi xung đột” [86]. Chúng ta hãy trở lại cổ vũ những gì tốt đẹp cho bản thân và cho cả gia đình nhân loại, từ đó cùng nhau tiến tới sự phát triển chân chính và toàn diện. Mọi xã hội cần bảo đảm để các giá trị được lưu truyền; nếu không, những gì được lưu truyền chỉ là thói ích kỷ, bạo lực, tham nhũng dưới nhiều hình thức khác nhau, sự thờ ơ, và sau cùng là một cuộc sống khép kín đối với tính siêu việt, cũng như cố thủ trong quyền lợi cá nhân.
Giá trị liên đới
114. Tôi muốn đề cập đặc biệt đến tình liên đới, “như là nhân đức luân lý và thái độ xã hội phát sinh từ việc hoán cải bản thân, kêu mời cam kết dấn thân của những ai có trách nhiệm giáo dục và đào tạo. Trước tiên, tôi nghĩ đến các gia đình, họ được mời gọi đảm nhiệm sứ mệnh giáo dục chính yếu và quan trọng. Gia đình là nơi đầu tiên mà các giá trị bác ái và tình mến huynh đệ, tinh thần đoàn kết và chia san, quan tâm ân cần và chăm sóc tha nhân được thực hành và lưu truyền. Gia đình cũng là môi trường ưu tuyển để thông truyền đức tin, khởi sự với những cử chỉ sùng kính giản đơn đầu tiên mà các bà mẹ dạy dỗ con cái. Là những người có nhiệm vụ đầy thách thức trong việc đào tạo trẻ thơ và thanh thiếu niên nơi học đường hoặc tại các môi trường khác, thầy cô cũng ý thức trách nhiệm mình mở rộng đến mọi khía cạnh đạo đức, tinh thần và xã hội của cuộc sống. Những giá trị tự do, tôn trọng lẫn nhau và liên đới có thể được lưu truyền từ khi còn niên thiếu…Người truyền thông cũng có trách nhiệm giáo dục và đào tạo, nhất là ngày nay, khi các phương tiện thông tin và truyền thông hết sức phổ biến” [87].
115. Vào lúc mọi sự dường như tan rã và mất đi tính nhất quán, chúng ta nên kêu gọi sự “vững chắc” [88] phát sinh từ ý thức rằng chúng ta chịu trách nhiệm cho tính mong manh của tha nhân, khi cố gắng kiến tạo một tương lai chung. Tình liên đới tự diễn tả cụ thể qua việc phục vụ dưới nhiều hình thức khác nhau, ngõ hầu nỗ lực chăm sóc người khác. Hơn nữa, phục vụ phần lớn có nghĩa là “quan tâm đến tình trạng dễ bị tổn thương, đến những thành viên dễ bị tổn thương trong gia đình, xã hội, dân tộc chúng ta”. Khi dấn thân phục vụ như vậy, mọi cá nhân học cách “gạt bỏ những ước muốn và khao khát riêng, cũng như tham vọng theo đuổi quyền lực của họ, trước ánh nhìn rõ nét của những người dễ bị tổn thương nhất…Phục vụ luôn để ý tới diện mạo, chạm đến cốt nhục, cảm nhận sự gần gũi của họ và thậm chí, trong một số trường hợp, phải 'chịu đựng' tính dè dặt ấy mà cố gắng giúp đỡ họ. Phục vụ chẳng bao giờ dính dáng tới ý thức hệ, vì lẽ chúng ta không phục vụ các ý niệm, chúng ta phục vụ con người ” [89].
116. Người cần giúp đỡ nói chung “thực hành tình liên đới đặc biệt tồn tại giữa những ai nghèo khó và khổ đau, và đó là nền văn minh của chúng ta dường như đã bị lãng quên hoặc muốn được quên hẳn trong thực tế rồi. Tình liên đới là hạn từ không phải lúc nào cũng được đón nhận nồng nhiệt; ở một số tình huống nào đó, nó bị biến thành hạn mục nhơ bẩn mà chẳng ai dám nói ra. Ý nghĩa của tình liên đới vượt xa việc tham dự vào những hành vi quảng đại rời rạc. Nó có nghĩa suy nghĩ và hành động theo hướng cộng đồng; nó là cuộc sống của tất cả những ai trước khi chiếm hữu của cải, hàng hoá của thiểu số. Nó cũng mang ý nghĩa chống lại các nguyên nhân cơ cấu của nghèo đói, bất bình đẳng, thiếu công ăn việc làm, đất đai và nhà cửa, bác bỏ quyền lao động và xã hội. Hơn nữa, nó còn đương đầu với những hậu quả hủy diệt nơi đế chế tiền tài…Hiểu theo nghĩa sâu xa nhất của nó, liên đới chính là phương cách làm nên lịch sử, và đây là điều mà các phong trào bình dân đang thực hiện” [90].
117. Khi nói đến nhu cầu chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta, tức là hành tinh này, chúng ta thắp lên tia sáng ý thức phổ quát và mối quan tâm lẫn nhau này, mà có lẽ nó vẫn còn hiện hữu trong trái tim mọi người. Những ai tận hưởng lượng nước dư dật, song chọn cách bảo tồn nó vì lợi ích của đại gia đình nhân loại lớn hơn, quả thật đã đạt tầm vóc đạo đức giúp họ nhìn xa hơn bản thân cũng như hội nhóm mà họ thuộc về. Ôi thật nhân bản kỳ diệu dường bao! Nếu chúng ta muốn công nhận quyền lợi của hết thảy mọi người, ngay cả những ai chào đời bên ngoài biên giới của chúng ta, thì cũng đòi hỏi thái độ tương tự như thế.
TÁI DỰ KIẾN VAI TRÒ XÃ HỘI CỦA QUYỀN SỞ HỮU
118. Thế giới hiện hữu vì mọi người, bởi lẽ tất cả chúng ta sinh ra với cùng một phẩm giá. Khác biệt về màu da, tôn giáo, tài năng, nơi ra đời hoặc cư trú, và nhiều điều khác, không thể dùng chúng để biện minh cho các đặc ân của một số kẻ vượt lên trên quyền lợi của mọi người được. Là cộng đồng, chúng ta có nghĩa vụ bảo đảm để mọi người sống đúng phẩm giá và có đủ cơ hội hầu phát triển toàn diện.
119. Trong những thế kỷ Ki-tô giáo đầu tiên, nhiều nhà tư tưởng đã khai triển một viễn kiến phổ quát trong các suy tư của họ về đích điểm chung nơi hàng hóa được tạo ra [91]. Điều này khiến họ nhận ra rằng nếu một người thiếu những gì thiết yếu để sống đúng nhân phẩm, thì đó là bởi người khác đã chiếm giữ nó. Thánh Gio-an Kim Khẩu tóm lược điều này như sau: “Không chia sẻ giàu sang của chúng ta với người nghèo là cướp đi sinh kế của họ. Của cải chúng ta sở hữu chẳng phải của riêng, mà là của cả họ nữa” [92]. Theo lời Thánh Grê-gô-ri-ô Cả, “Khi cung cấp các nhu cầu căn bản cho người nghèo, thì chúng ta đang cho họ những gì thuộc về họ, chứ không phải thuộc chúng ta” [93].
120. Một lần nữa, tôi muốn nhắc lại tuyên bố của Thánh Gio-an Phao-lô II mà sức mạnh của nó có lẽ chưa được công nhận đầy đủ: “Thiên Chúa trao ban trái đất cho toàn thể nhân loại ngõ hầu nuôi sống mọi thành viên, không loại trừ hay ưu ái bất kỳ ai” [94]. Về phần mình, tôi nhận xét rằng “truyền thống Ki-tô giáo chưa bao giờ công nhận quyền tư hữu là tuyệt đối hoặc bất khả xâm phạm, và đã nhấn mạnh đến mục đích xã hội của mọi hình thức tư hữu” [95]. Nguyên tắc sử dụng chung các hàng hóa được tạo ra là “nguyên lý đầu tiên của toàn bộ trật tự xã hội và đạo đức” [96]; nó là quyền tự nhiên và cố hữu, được ưu tiên hơn những quyền khác [97]. Tất cả quyền lợi khác liên quan đến hàng hóa thiết yếu phục vụ cho sự viên mãn nơi con người, bao gồm quyền tư hữu hoặc bất cứ loại sở hữu nào khác, – theo lời Thánh Phao-lô VI – thì “không được cản trở [quyền này], nhưng nên tích cực tạo điều kiện để thực thi nó ” [98]. Quyền tư hữu chỉ có thể được coi là quyền tự nhiên thứ cấp, xuất phát từ nguyên tắc đích điểm phổ quát của hàng hoá được tạo ra. Và những hậu quả cụ thể này cần được phản ảnh trong hoạt động xã hội. Tuy nhiên, các quyền thứ cấp thường di dời và giẫm đạp lên những quyền bậc nhất, còn trên thực tế nó biến chúng thành bất liên quan.
Các quyền vượt qua biên giới
121. Vì vậy, chẳng một ai có thể mãi bị loại trừ do nơi họ sinh ra, lại càng không bị loại trừ vì các đặc ân mà người khác được chào đời tại những vùng đất có nhiều cơ hội tận hưởng. Giới hạn và biên giới của mọi quốc gia cá thể chẳng thể nào cản trở điều này. Khó lòng chấp nhận một số sở hữu ít quyền hơn do họ là phụ nữ, thì tương tự không thể chịu được thực tế người dân sẽ có ít cơ hội hơn cho một cuộc sống phát triển và xứng đáng, chỉ vì do nơi họ sinh ra hoặc nơi cư trú.
122. Phát triển không được nhằm thu tích của cải cho một số người, mà phải bảo đảm “các nhân quyền – quyền cá nhân và quyền xã hội, quyền kinh tế và quyền chính trị, bao gồm cả những quyền của các quốc gia và dân tộc” [99]. Quyền của một số người tự do kinh doanh hoặc tham gia thị trường tự do không thể thay thế quyền của các dân tộc và phẩm giá của người nghèo, hay cũng trong vấn đề này, cử chỉ tôn trọng môi trường tự nhiên, bởi lẽ “nếu chúng ta tự làm ra được thứ gì đó, thì chỉ để quản lý nó vì thiện ích của hết thảy mọi người mà thôi” [100].
123. Về bản chất, hoạt động kinh doanh là “một ơn gọi cao quý, hướng đến việc tạo ra của cải và cải thiện thế giới của chúng ta” [101]. Thiên Chúa khuyến khích chúng ta phát triển các tài năng mà Người đã ban, và Người biến vạn vật thành một vũ trụ có tiềm năng bao la rộng lớn. Trong kế hoạch của Thiên Chúa, mỗi cá nhân được kêu mời cổ vũ sự phát triển của chính họ [102], và điều này bao gồm việc tìm ra các phương tiện kinh tế và kỹ thuật tốt nhất để sản sinh của cải và gia tăng thịnh vượng. Những khả năng kinh doanh vốn là tặng phẩm/hồng phúc của Thiên Chúa, nên luôn được điều hướng rõ ràng vào việc giúp tha nhân thăng tiến và xóa bỏ nghèo đói, đặc biệt nhờ vào khả năng kiến tạo cơ hội làm việc đa dạng. Quyền tư hữu luôn đi kèm với nguyên tắc bậc nhất và tiên nghiệm buộc mọi tư hữu tuỳ thuộc vào điểm đích phân bổ phổ quát của mọi của cải trên trái đất này, và do đó tất cả đều có quyền sử dụng chúng [103].
Quyền của các dân tộc
124. Ngày nay, niềm tin vững chắc vào điểm đích chung của mọi của cải trên trái đất đòi hỏi nguyên tắc này cũng phải được áp dụng cho các quốc gia, vùng lãnh thổ và nguồn tài nguyên của họ. Nhìn từ quan điểm không chỉ về tính hợp pháp của quyền tư hữu và quyền công dân, mà còn nguyên tắc đầu tiên về điểm đích chung của hàng hoá, thì chúng ta có thể nói rằng đất nước cũng thuộc về khách ngoại kiều, do đó, không được từ khước chia sẻ của cải nơi lãnh thổ mình với người túng thiếu phát xuất từ một lãnh thổ khác. Như chư huynh Giám mục Hoa Kỳ đã dạy, những quyền căn bản “có trước bất cứ xã hội nào, bởi vì chúng xuất phát từ phẩm giá được ân ban cho mỗi người vốn được Thiên Chúa dựng nên” [104].
125. Điều này giả định một lối hiểu khác về những liên hệ và trao đổi giữa các quốc gia. Nếu mỗi con người đều sở hữu phẩm giá bất khả chuyển nhượng, nếu mọi người đều là anh chị em tôi, và nếu thế giới thật sự thuộc về mọi người, thì người lân cận của tôi sinh ra ở nước tôi hay ở nơi khác đâu còn quan trọng nữa. Chính đất nước tôi cũng chia sẻ trách nhiệm đối với sự phát triển của họ, mặc dù nó có thể chu toàn trách nhiệm đó theo nhiều cách khác nhau. Nó có thể mở rộng vòng tay quảng đại chào đón những ai đang cần kíp, hoặc nỗ lực cải thiện điều kiện sống ở xứ sở họ bằng cách từ chối bóc lột quốc gia hoặc vét cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên của họ, bác bỏ ủng hộ hệ thống thối nát vốn cản trở sự phát triển xứng đáng nơi dân tộc họ. Điều gì áp dụng cho các quốc gia cũng phải áp dụng cho mọi khu vực khác nhau trong mỗi đất nước, vì sự bất bình đẳng quá lớn thường tồn tại ở đó. Đôi khi, hiện trạng không thể thừa nhận phẩm giá bình đẳng của con người khiến các khu vực phát triển hơn ở một số quốc gia nghĩ rằng họ có khả năng loại bỏ "những gánh nặng chết người" tại các khu vực nghèo hơn và như vậy làm mức tiêu thụ của họ tăng cao.
126. Chúng ta thực sự đang nói tới một mạng lưới tương quan quốc tế mới, vì chẳng có cách nào giải quyết vô vàn vấn đề nghiêm trọng của thế giới nếu chúng ta tiếp tục chỉ nghĩ theo sự tương trợ giữa những cá nhân hay các nhóm nhỏ. Chúng ta cũng nên nhớ rằng “tính bất bình đẳng không những ảnh hưởng đến cá nhân mà còn toàn bộ các quốc gia; nó buộc chúng ta xem xét một nền đạo đức tương quan quốc tế ” [105]. Thật vậy, công lý đòi hỏi công nhận và tôn trọng không chỉ các quyền cá nhân, mà còn cả những quyền xã hội và quyền của các dân tộc nữa [106]. Nghĩa là phải tìm ra cách thức bảo đảm “quyền căn bản của mọi dân tộc được sinh sống và phát triển” [107], mà quyền này đôi khi bị hạn chế nghiêm trọng do áp lực nợ nần nước ngoài tạo ra. Trong nhiều trường hợp, việc trả nợ chẳng những không cổ vũ phát triển mà còn hạn chế và đặt điều kiện nghiêm trọng cho nó. Mặc dù tôn trọng nguyên tắc mọi khoản nợ hợp pháp phải được hoàn trả, nhưng cách thức mà trong đó nhiều nước nghèo không đáng phải chịu kết cuộc thoả hiệp về sự tồn vong và phát triển của họ khi chu toàn nghĩa vụ này.
127. Chắc chắn, tất cả những điều này kêu mời một cách suy nghĩ khác. Nếu không nỗ lực bước vào lối suy nghĩ này, thì điều tôi đang nói đây có vẻ phi hiện thực quá đỗi. Mặt khác, nếu chấp nhận nguyên tắc lớn lao mà nơi đó những quyền phát sinh từ nhân phẩm bất khả chuyển nhượng của bản thân, thì chúng ta có thể đương đầu với thách thức dự kiến một nhân loại tươi mới. Có lẽ chúng ta khát mong một thế giới cung cấp đất đai, nhà cửa và công ăn việc làm cho mọi người. Đây là chặng đường hòa bình đích thật, chẳng phải chiến lược vô nghĩa, đầy thiển cận, gieo rắc sợ hãi và ngờ vực khi đối diện với các mối đe dọa từ bên ngoài. Vì một nền hòa bình chân thật vững bền chỉ có thể thành hiện thực dựa “trên cơ sở đạo đức toàn cầu của tình liên đới và sự hợp tác nhằm phục vụ một tương lai được thành hình nhờ tính liên lập và trách nhiệm chung nơi toàn thể gia đình nhân loại” [108].
CHƯƠNG IV
TÂM HỒN MỞ RỘNG TRƯỚC TOÀN THỂ THẾ GIỚI
128. Nếu xác tín cho rằng hết thảy mọi người là anh chị em không còn là ý niệm trừu tượng nữa, mà được hiện thân cụ thể, thì nhiều vấn đề liên quan xuất hiện, buộc chúng ta phải nhìn mọi sự dưới nguồn ánh sáng mới và khai triển ra các ứng đáp mới.
CÁC BIÊN GIỚI VÀ NHỮNG GIỚI HẠN CỦA CHÚNG
129. Những thách thức phức tạp nảy sinh khi lân cận chúng ta tình cờ là một di dân [109]. Xét theo lý tưởng thì nên tránh tình trạng di dân không cần thiết; nhưng điều này đòi hỏi các quốc gia xuất xứ phải tạo ra những điều kiện thiết yếu cho một cuộc sống xứng đáng và phát triển toàn diện. Tuy nhiên, cho đến lúc mục tiêu này đạt được những tiến bộ đáng kể, thì chúng ta phải tôn trọng quyền của mọi cá nhân, ngõ hầu tìm ra một nơi mà có khả năng đáp ứng các nhu cầu căn bản của họ và gia đình họ, đồng thời, cũng là nơi giúp họ có thể tìm thấy sự viên mãn cá vị. Phản ứng của chúng ta trước làn sóng di dân có lẽ được tóm tắt trong bốn chữ sau đây: chào đón, bảo vệ, phát huy và hòa nhập. Bởi lẽ “đây không phải là trường hợp thực hiện các chương trình phúc lợi từ trên xuống, mà đúng hơn là cùng đảm nhận suốt chặng đường qua bốn hành động này, nhằm kiến thiết các thành phố và quốc gia rộng mở trước mọi khác biệt và biết cách phát huy chúng trong tinh thần huynh đệ nhân bản, trong khi bảo tồn bản sắc văn hóa và tôn giáo tương ứng” [110].
130. Điều này ngụ ý thực hiện một số bước không thể thiếu được, đặc biệt đối với những ai đang trốn chạy khỏi các cuộc khủng hoảng nhân đạo nghiêm trọng. Một số thí dụ điển hình như: gia tăng và đơn giản hóa việc cấp thị thực; chuẩn nhận các chương trình tài trợ cá nhân và cộng đồng; mở hành lang nhân đạo cho những người tị nạn dễ bị tổn thương nhất; cung cấp nhà ở phù hợp và xứng đáng; đảm bảo an ninh cá nhân và tiếp cận các dịch vụ căn bản; bảo đảm trợ giúp thỏa đáng ở cấp lãnh sự và quyền được lưu giữ mọi giấy tờ tùy thân; tiếp cận công bằng với hệ thống tư pháp; tính khả thể mở tài khoản ngân hàng và đảm bảo mức tối thiểu cần thiết để sinh tồn; tự do đi lại và có công ăn việc; bảo vệ trẻ vị thành niên và bảo đảm cho họ tiếp cận giáo dục thường xuyên; cung cấp những chương trình giám hộ tạm thời hoặc tạm trú; đảm bảo tự do tôn giáo; cổ vũ việc hội nhập xã hội; hỗ trợ gia đình đoàn tụ; và chuẩn bị các cộng đồng địa phương cho diễn trình hội nhập [111].
131. Đối với những ai không phải chân nước chân ráo mới tới, mà đã tham gia vào cơ cấu xã hội, thì điều quan trọng là phải áp dụng khái niệm “quyền công dân”, một khái niệm vốn “dựa trên sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, theo đó mọi người đều được hưởng công lý. Vì vậy, rất hệ trọng khi thiết lập trong các xã hội chúng ta khái niệm về quyền công dân đầy đủ và bác bỏ việc sử dụng thuật ngữ mang tính kỳ thị nhóm thiểu số, vốn gây ra cảm giác cô lập và tự ti. Tình trạng lạm dụng này mở đường cho mối thù nghịch và bất hòa; nó hủy hoại bất kỳ thành quả nào và tước đoạt các quyền tôn giáo và dân sự của một số công dân, mà từ đó họ bị phân biệt đối xử” [112].
132. Ngay cả khi họ tiến hành những bước thiết yếu như vậy, nhưng các quốc gia không thể tự mình thực hiện các giải pháp tương xứng, “bởi vì hậu quả từ mọi quyết định của mỗi quốc gia chắc chắn sẽ tác động trở lại với toàn thể cộng đồng quốc tế”. Như vậy, “đáp ứng của chúng ta có lẽ chỉ là kết quả của một nỗ lực chung” [113] nhằm phát triển loại hình quản trị hoàn cầu liên quan đến các phong trào di dân. Vì thế, “cần lên kế hoạch trung hạn và dài hạn, không chỉ hạn chế đáp ứng khẩn cấp. Đặt ra kế hoạch như thế cần bao gồm việc hỗ trợ hữu hiệu, nhằm trợ giúp giới di dân hội nhập vào những quốc gia tiếp nhận họ, trong khi đó cổ vũ phát triển quê hương họ qua nhiều chính sách lấy nguồn cảm hứng từ tình liên đới, chứ không liên kết công việc hỗ trợ với vô số chiến lược và lối thực hành mang tính ý thức hệ xa lạ hoặc trái ngược với nền văn hóa của các dân tộc được hỗ trợ ” [114].
TẶNG PHẨM HỖ TƯƠNG
133. Những ai khác biệt, đến từ lối sống và nền văn hóa khác, có thể là một quà tặng, vì “các câu chuyện di dân luôn là cuộc gặp gỡ giữa những cá nhân và giữa nền văn hóa với nhau. Đối với cộng đồng và xã hội nơi giới di dân đến, họ mang tới cơ hội làm giàu và phát triển con người toàn diện cho tất cả mọi người” [115]. Vì lý do này, “Tôi đặc biệt kêu gọi các bạn trẻ đừng chạy theo những ai sai khiến họ chống lại người trẻ khác vừa mới đặt chân tới đất nước họ, và những kẻ cổ vũ xem đây như mối đe dọa, chứ chẳng sở hữu cùng một phẩm giá bất khả chuyển nhượng như bao người khác ” [116].
134. Thật vậy, khi chúng ta mở lòng ra với những ai khác biệt này thì nó giúp họ phát triển một cách mới mẻ, trong khi vẫn là chính mình. Các nền văn hóa khác nhau, vốn đã đơm hoa kết trái qua nhiều thế kỷ cần được bảo tồn, kẻo thế giới chúng ta trở nên nghèo nàn. Đồng thời, những nền văn hóa này nên được khuyến khích cởi mở trước nhiều cảm nghiệm tươi mới qua việc gặp gỡ các thực tại khác, bởi lẽ nguy cơ sa vào chứng xơ cứng văn hóa luôn hiện diện. Đây là lý do tại sao “chúng ta cần thông đạt với nhau, khám phá quà tặng hồng phúc của mỗi người, cổ vũ hợp nhất và nhìn xem mọi nét khác biệt của chúng ta như một cơ hội trưởng thành trong việc tôn trọng lẫn nhau. Tính kiên trì và niềm tin tưởng được kêu mời cho công cuộc đối thoại như vậy, cho phép các cá nhân, gia đình và cộng đồng lưu truyền những giá trị văn hóa riêng của họ và chào đón điều tốt lành đến từ kinh nghiệm của tha nhân ” [117].
135. Tôi sẽ đề cập ở đây một số thí dụ mà tôi đã nêu ra trước kia. Nền văn hóa Nam Mỹ/Mỹ La-tinh là “men giá trị và khả thể có thể làm cho Hoa Kỳ giàu có vượt bậc”, sở dĩ vì “tình trạng nhập cư dữ dội luôn đến hồi kết chi phối và biến đổi nền văn hóa ở một nơi...Tại Ar-hen-ti-na, làn sóng di dân lớn lao từ Ý đã để lại dấu ấn trong nền văn hóa xã hội, và sự hiện diện của khoảng 200.000 người Do Thái ảnh hưởng sâu sắc đến 'phong cách' văn hóa của thủ phủ Bu-ê-nos Ai-res. Nếu được giúp đỡ hoà nhập, giới di dân là một ơn phúc, một nguồn lợi giàu có và tặng phẩm mới mẻ vốn khích lệ xã hội thăng tiến” [118].
136. Xết về quy mô rộng lớn hơn, Đại I-mam Ahmad Al-Tayyeb và tôi đã nhận thấy rằng “những mối tương quan tốt đẹp giữa Đông phương và Tây phương rõ ràng thiết yếu cho đôi bên mà chẳng cần bàn cãi. Chúng ta không được sao lãng, hầu mỗi bên có thể được trở nên giàu có nhờ vào nền văn hóa đối tác qua diễn trình trao đổi và đối thoại hữu hiệu. Nơi phương thức trị liệu Đông phương, Tây phương có lẽ khám phá ra những căn bệnh tâm linh và tôn giáo do chủ nghĩa vật chất thịnh hành gây ra. Và Đông phương có thể tìm thấy ở Tây phương nhiều yếu tố giúp thoát khỏi tình cảnh yếu kém, chia rẽ, xung đột, đồng thời suy thoái về khoa học, kỹ thuật và văn hóa. Tuy nhiên, rất hệ trọng khi chú ý tới mọi nét khác biệt về tôn giáo, văn hóa và lịch sử vốn là cấu thành sống còn trong việc định hình nhân cách, văn hóa và nền văn minh Đông phương. Cũng vậy, không kém phần quan trọng khi củng cố mối dây liên kết các nhân quyền căn bản nhằm giúp bảo đảm cuộc sống xứng đáng cho mọi người, đàn ông lẫn phụ nữ tại Đông và Tây phương, tránh xa nền chính trị hai mặt” [119].
Cuộc trao đổi đơm hoa kết trái
137. Sự tương trợ giữa các quốc gia chứng tỏ họ làm giàu lẫn nhau. Một đất nước tiến triển trong khi vẫn giữ được nền tảng vững chắc trên cơ sở văn hóa nguyên thuỷ của nó chính là kho báu quý giá cho toàn thể nhân loại. Chúng ta cần phát triển ý thức cho rằng ngày nay tất cả được cứu thoát cùng nhau, hay chẳng một ai được cứu vớt. Nghèo đói, suy đồi và đau khổ ở một phần hoàn cầu là lý chứng thầm lặng nuôi dưỡng các vấn nạn kết cuộc sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hành tinh này. Nếu chúng ta rối bời trước tình trạng tuyệt chủng của một số loài, thì ắt hẳn chúng ta càng trở nên bối rối hơn khi ở vài khu vực trên thế giới, các cá nhân hoặc dân tộc đang bị kiềm hãm phát triển tiềm năng và nét đẹp của họ do nạn nghèo đói hoặc những hạn chế cơ cấu khác. Cuối cùng, điều này sẽ làm tất cả chúng ta nghèo nàn đi.
138. Dẫu rằng luôn luôn đúng, nhưng nó chưa bao giờ rõ ràng hơn trong thời đại chúng ta, khi thế giới được kết nối với nhau bằng chính sách toàn cầu hóa. Chúng ta cần đạt được một trật tự pháp lý, chính trị và kinh tế hoàn cầu mà “có thể gia tăng cũng như định hướng cho sự hợp tác quốc tế nhằm phát triển mọi dân nước trong tình liên đới” [120]. Nói cho cùng, điều này sẽ mang lại ích lợi cho toàn thế giới, bởi vì “viện trợ phát triển cho các nước nghèo” ngụ ý “tạo ra sự thịnh vượng cho mọi người” [121]. Theo quan điểm phát triển toàn diện, điều này giả định “đem lại tiếng nói hữu hiệu cho những quốc gia nghèo hơn trong việc đưa ra quyết định chung” [122] và khả năng “tạo điều kiện tiếp cận thị trường quốc tế cho các quốc gia đang đối diện với nạn nghèo khổ và kém phát triển” [123].
Tinh thần chia san vô điều kiện rộng mở với tha nhân
139. Mặc dù vậy, tôi không muốn bài trình bày này bị giới hạn vào lối tiếp cận thực dụng. Nhân tố “cho đi nhưng không”: khả năng thực hiện một số việc đơn giản chỉ vì tự chúng vốn là điều tốt lành, bất luận đến lợi ích hay đền đáp cá nhân. Tinh thần chia san vô điều kiện khiến chúng ta niềm nở chào đón người xa lạ, dẫu nó chẳng mang lại lợi ích hữu hình tức khắc nào cho chúng ta. Tuy nhiên, tại một số quốc gia vẫn giả định chấp nhận các khoa học gia hoặc nhà đầu tư mà thôi.
140. Cuộc sống mà chẳng buồn chia san tình huynh đệ nhưng không thì sẽ biến thành một loại hình thương mại điên cuồng, trong đó chúng ta cứ đề cao những gì chúng ta cho đi và những gì chúng ta nhận lại. Tuy vậy, Thiên Chúa lại trao ban một cách tự do, đến mức giúp đỡ ngay cả những kẻ bất trung; Người “cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5, 45). Và có lý do tại sao Đức Giê-su nói với chúng ta: “Khi bố thí, anh em đừng cho tay phải biết việc tay trái làm, để việc anh em bố thí được kín đáo” (Mt 6, 3-4). Chúng ta đã lãnh nhận cuộc sống một cách nhưng không, nhưng chẳng phải trả giá chi cả để nhận lãnh nó. Do đó, hết thảy chúng ta đều có thể cho đi mà không mong nhận lại bất cứ điều gì, làm việc lành cho tha nhân nhưng chẳng đòi hỏi họ đối xử tốt với mình. Như Đức Giê-su đã từng dạy các môn đệ rằng: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10, 8).
141. Giá trị đích thật của mọi dân nước khác nhau trên thế giới được đo lường bằng khả năng tư duy của họ, không chỉ đơn thuần ở mức độ quốc gia mà còn là một phần của đại gia đình nhân loại. Đặc biệt, điều này được thấy rõ trong thời kỳ khủng hoảng. Các hình thức hạn hẹp của chủ nghĩa dân tộc là biểu hiện cực đoan chẳng thể nào thấu hiểu ý nghĩa của việc chia san nhưng không này. Họ sai lầm khi nghĩ rằng họ có thể tự phát triển, bất luận hủy hoại tha nhân, bằng phương cách khép kín bản thân, họ sẽ được bảo vệ tốt hơn. Người ta coi giới di dân như những kẻ tiếm quyền, chẳng có gì để cống hiến cả. Điều này dẫn đến niềm tin ngây ngô cho rằng người nghèo nguy hiểm và vô dụng, trong khi những ai nắm quyền lại là nhà hảo tâm hào phóng. Nhưng thật ra, duy chỉ nền văn hóa xã hội và chính trị nào sẵn sàng chào đón người khác một cách “nhưng không” thì mới có tương lai.
ĐỊA PHƯƠNG VÀ HOÀN VŨ
142. Nên ghi nhớ rằng “tình trạng căng thẳng cố hữu giữa toàn cầu hóa và địa phương hóa đang tồn tại. Chúng ta cần chú ý đến khía cạnh hoàn cầu, nhằm tránh tính hẹp hòi và tầm thường. Tuy nhiên, cũng nên nhìn đến khía cạnh địa phương, là nơi giữ chúng ta ở thế bám trụ cơ sở thực tiễn. Cả hai phương diện cùng ngăn chúng ta khỏi bị rơi vào một trong hai thái cực sau đây: Thứ nhất, con người bị cuốn vào một vũ trụ toàn cầu hoá trừu tượng… Kế đến, họ tự biến thành viện bảo tàng văn hóa dân gian ẩn dật khép kín, cứ phải lặp đi lặp lại những điều tương tự, chẳng thể nào đối diện với thách đố từ điều mới mẻ lạ thường, hoặc do bởi hành động đánh giá vẻ đẹp mà Thiên Chúa vốn ban tặng vượt xa ranh giới của họ” [124]. Chúng ta cần có lối nhìn bao quát hoàn cầu hầu tự cứu mình khỏi chủ nghĩa tỉnh lẻ nhỏ nhen. Khi ngôi nhà chúng ta không còn là tổ ấm và bắt đầu biến thành khu hàng rào vây quanh, buồng giam, rồi nhân tố hoàn cầu đến giải cứu như một “chính nghĩa cứu cánh”, mà nó kéo lê chúng ta về sự trọn vẹn bản thân. Đồng thời, dù nhân tố địa phương phải được hào hứng đón nhận, vì nó sở hữu vài điều mà nhân tố hoàn cầu không có: nào là khả năng lan rộng, mang lại nét phong phú đa dạng, phát khởi các cơ chế phụ đới. Vì thế, tình huynh đệ phổ quát và tình bạn xã hội là lưỡng cực bất khả phân li và quan trọng như nhau trong mọi xã hội. Tách biệt chúng ắt sẽ làm biến dạng từng dạng thức và tạo ra sự phân cực đầy nguy hiểm.
Hương vị địa phương
143. Giải pháp chẳng phải là sự cởi mở nhằm vứt bỏ tính giàu sang phong phú của nó. Cũng vậy, chẳng thể nào đối thoại được với “những người khác” nếu mất cảm thức về căn tính của chính chúng ta, vì vậy giữa các dân tộc không thể có sự cởi mở, ngoại trừ nó được dựa trên cơ sở tình yêu đối với quê hương, dân tộc và cội nguồn văn hóa riêng. Tôi không thể thực sự gặp gỡ người khác, trừ phi tôi đứng trên những nền tảng vững chắc, vì nhờ dựa trên cơ sở của điều này, tôi mới có thể chấp nhận tặng phẩm mà người khác mang lại và đến lượt mình, tôi hiến trao tặng phẩm đích thật của riêng tôi. Tôi có thể niềm nở chào đón những ai khác biệt, và đánh giá cao việc họ đóng góp cách độc đáo, chỉ khi nào tôi bén rễ vững chắc vào chính dân tộc và văn hóa của mình. Mọi người đều yêu mến và quan tâm đến quê hương, làng mạc của mình, cũng như họ yêu quý và chăm sóc tổ ấm gia đình họ và đích thân chịu trách nhiệm đối với việc duy trì nó. Tương tự, thiện ích chung cũng đòi hỏi chúng ta phải bảo vệ và yêu thương quê hương mình. Nếu không, các hậu quả của thảm họa tại một quốc gia kết cuộc sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hành tinh này. Tất cả điều này làm nổi bật ý nghĩa tích cực của quyền tư hữu tài sản: Tôi chăm sóc và vun đắp những gì tôi sở hữu theo cách mà khiến nó có thể đóng góp vào lợi ích của mọi người.
144. Nó cũng gia tăng giao lưu trao đổi lành mạnh và phong phú thêm. Kinh nghiệm được lớn lên ở một nơi riêng biệt và chia sẻ nền văn hóa đặc thù mang lại cho chúng ta cách nhìn sâu sắc vào những khía cạnh thực tại mà người khác khó có thể lĩnh hội. Tính chất hoàn vũ không nhất thiết nhạt nhẽo, đồng dạng và đạt tiêu chuẩn, dựa trên mô hình văn hóa đơn nhất thịnh hành, vì sau cùng, điều này sẽ dẫn tới tình trạng đánh mất bảng màu đa dạng gồm nhiều sắc thái và màu sắc, rồi trở nên đơn điệu hoàn toàn. Đây là cơn cám dỗ được nhắc đến trong tích xưa Tháp Ba-bel. Nỗ lực xây tháp cao chọc trời chẳng biểu đạt sự thống nhất giữa các dân tộc khác biệt thông diễn với nhau từ nguồn phong phú đa dạng của họ. Thay vào đó, nó đã là một nỗ lực sai lạc, phát sinh từ thói kiêu căng và tham vọng, muốn tạo ra sự thống nhất khác với tình hiệp nhất mà Thiên Chúa mong muốn trong kế hoạch quan phòng của Người dành cho mọi dân nước (x. St 11, 1-9).
145. Một sự cởi mở có thể sai lầm đối với yếu tố hoàn vũ, phát sinh từ tính nông cạn của những ai thiếu cái nhìn sâu sắc về tinh hoa nơi đất nước họ hoặc chỉ nuôi dưỡng hiềm khích oán hận chưa ngã ngũ nhắm vào dân tộc mình. Dù thế nào đi chăng nữa, “chúng ta phải liên tục mở rộng tầm nhìn và nhận ra điều tốt đẹp hơn sẽ mang lại lợi ích cho tất cả chúng ta. Nhưng điều này phải được thực hiện mà không lẫn tránh hay trừ tiệt. Chúng ta cần bén rễ sâu hơn vào mảnh đất màu mỡ và lịch sử quê hương, vốn là quà tặng của Thiên Chúa. Chúng ta có thể làm việc trên quy mô nhỏ, tại khu vực lân cận, nhưng với viễn cảnh rộng lớn hơn…Yếu tố hoàn cầu không cần kiềm nén, và yếu tố đặc thù cũng chẳng cần chứng tỏ cằn cỗi” [125]; mô hình của chúng ta phải là khối đa diện, trong đó giá trị của mỗi cá nhân được tôn trọng, là nơi “toàn thể lớn hơn bộ phận, nhưng cũng lớn hơn tổng số bộ phận của nó” [126].
Một chân trời phổ quát
146. Một loại yêu bản thân thái quá mang tính “địa phương” không chút can dự đến tình yêu lành mạnh dành cho dân tộc và văn hóa riêng mình. Nó phát sinh từ tình trạng bất an và nỗi sợ hãi nào đó về người khác, dẫn đến hành vi bác bỏ và mong muốn dựng lên những bức tường nhằm tự vệ. Tuy nhiên, chẳng thể nào có tính “địa phương” lành mạnh, nếu không cởi mở chân thành với yếu tố phổ quát, không cảm nhận được thách đố do những gì đang xảy ra ở nhiều nơi khác, không mở lòng đón nhận thêm nét phong phú đa dạng nhờ vào các nền văn hóa, hơn nữa, chẳng hề liên đới và quan tâm đến những thảm kịch đang ảnh hưởng đến các dân tộc khác. Thay vào đó, “thói yêu bản thân mang tính địa phương thái quá” chỉ lưu tâm đến một số ý tưởng, phong tục và loại hình an ninh hạn chế; không thể ngưỡng mộ tiềm năng bao la và vẻ đẹp mà thế giới rộng lớn hơn trao tặng, nó thiếu hẳn tinh thần liên đới chân chính và quảng đại. Vì vậy, cuộc sống trên bình diện địa phương ngày càng trở nên ít ân cần hơn, người ta ít cởi mở bổ túc cho nhau hơn. Các khả thể phát triển của nó hẹp dần; nó trở nên mệt mỏi và ốm yếu. Trái lại, một nền văn hóa lành mạnh, tự bản chất nó cởi mở và ân cần; quả vậy, “văn hóa không thấm đượm các giá trị phổ quát thì chưa thực sự là một nền văn hóa” [127].
147. Chúng ta cùng nhận ra rằng khi tâm trí chúng ta càng hạn hẹp, thì khả năng hiểu biết về thế giới xung quanh càng yếu kém. Nếu không gặp gỡ và kết nối với những đặc tính khác biệt, thì khó mà đạt được một sự hiểu biết rõ ràng và đầy đủ về chính bản thân và quê hương chúng ta. Các nền văn hóa khác chẳng phải là “kẻ thù” mà chúng ta cần phải tự vệ, nhưng là những phản chiếu khác nhau nơi đặc điểm phong phú vô tận của sự sống con người. Nhìn vào bản thân theo quan điểm của tha nhân, của một người khác biệt, chúng ta có thể nhận ra tốt hơn những nét độc đáo của mình và của nền văn hóa chúng ta: sự phong phú, các khả thể và hạn chế của nó. Kinh nghiệm địa phương của chúng ta cần phát triển “tương phản với” và “hài hòa với” những kinh nghiệm của tha nhân đang sống trong các bối cảnh văn hóa đa dạng [128].
148. Trên thực tế, sự cởi mở lành mạnh chẳng bao giờ đe dọa căn tính của ai. Một nền văn hóa sống động được làm giàu bởi các yếu tố từ những nơi khác, không du nhập bản sao đơn thuần gồm các yếu tố mới ấy, nhưng làm chúng hòa nhập theo cách độc đáo riêng của nó. Kết quả là một cuộc tổng hợp mới cứu cánh có lợi cho mọi người, bởi vì nền văn hóa nguyên thuỷ sau cùng được dưỡng nuôi. Đây là lý do tại sao tôi thúc giục người dân bản địa trân quý ấp ủ cội nguồn và văn hóa tổ tiên của họ. Đồng thời, tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng tôi không có ý định tiến cử “một ‘chủ nghĩa duy bản địa’ hoàn toàn khép kín, phi lịch sử, tĩnh tại, mà nó bác bỏ bất cứ kiểu pha trộn nào (mestizaje)”. Bởi lẽ “bản sắc văn hóa riêng của chúng ta được củng cố và trở nên phong phú nhờ đối thoại với những ai không giống chúng ta. Ngoài ra, căn tính đính thật của chúng ta cũng chẳng được bảo tồn bởi sự cô lập nghèo nàn” [129]. Thế giới vươn lên tràn trề vẻ đẹp mới, nhờ những cuộc tổng hợp nối tiếp nhau được tạo ra giữa các nền văn hóa mang tính cởi mở và chẳng có bất cứ hình thức áp đặt văn hóa nào.
149. Đối với mối liên hệ lành mạnh giữa tình yêu quê hương đất nước với cảm thức xác thực thuộc về gia đình nhân loại lớn lao hơn, thì thật hữu ích khi ghi nhớ rằng xã hội hoàn cầu chẳng phải tổng số các quốc gia khác nhau, mà đúng hơn là sự hiệp thông hiện hữu giữa họ. Cảm thức hỗ tương thuộc về nhau có trước việc các nhóm cá thể xuất hiện. Mỗi nhóm đặc thù trở thành một phần của cơ cấu hiệp thông phổ quát và rồi khám phá ra vẻ đẹp của chính nó tại nơi ấy. Mọi cá nhân bất kể nguồn gốc, đều biết rằng họ là một phần của gia đình nhân loại rộng lớn hơn, nếu không có gia đình này, họ sẽ chẳng thể nào hiểu biết trọn vẹn về chính họ.
150. Nhìn sự việc theo cách này mang lại nhận thức hân hoan cho rằng không một dân tộc, một nền văn hóa hay cá nhân nào có thể tự mình đạt được mọi thứ: chúng ta cần đến tha nhân, ngõ hầu đạt tới sự viên mãn trong đời. Ý thức những hạn chế và bất toàn nơi bản thân, chẳng phải là lời đe dọa, nhưng trở thành chìa khóa vạch ra và theo đuổi một đề án chung. Bởi vì “con người là hữu thể vừa hạn định, vừa vô hạn định” [130].
Bắt đầu với khu vực của chúng ta
151. Nhờ việc trao đổi giao lưu vùng miền, mà các nước nghèo hơn lại cởi mở với thế giới rộng lớn, còn tính phổ quát không nhất thiết làm giảm đi các đặc điểm riêng biệt của họ. Cởi mở với thế giới một cách thích hợp và chân chính giả định khả năng rộng mở với hàng xóm của mình trong gia đình các quốc gia. Do đó, hội nhập văn hóa, kinh tế và chính trị với mọi dân tộc láng giềng nên đồng hành với diễn trình giáo dục biết cổ vũ giá trị yêu thương người lân cận, một bước đầu tiên không thể thiếu hướng tới hội nhập hoàn cầu lành mạnh.
152. Ở một số nơi tại thành phố chúng ta, vẫn còn cảm thức xóm làng sống động. Mỗi người chẳng ngượng ngập nhận ra bổn phận mình phải đồng hành và giúp đỡ người lân cận. Tại những nơi mà các giá trị cộng đồng này được duy trì, thì người ta cảm nghiệm sự gần gũi ghi dấu nhờ lòng biết ơn, tình liên đới và tính hỗ tương. Tình xóm làng mang lại cho họ một cảm thức về bản sắc chung [131]. Ước chi các quốc gia lân bang có thể khích lệ tinh thần láng giềng tương tự giữa các dân tộc của họ! Tuy nhiên, tinh thần cá nhân chủ nghĩa cũng ảnh hưởng đến mối tương quan giữa nhiều quốc gia. Nguy cơ của lối suy nghĩ cho rằng chúng ta phải tự vệ chống lại nhau, coi người khác là đối thủ cạnh tranh hoặc là kẻ thù nham hiểm, cũng ảnh hưởng đến mối liên hệ giữa các dân tộc trong cùng khu vực. Có lẽ chúng ta đã được huấn luyện trong kiểu sợ hãi và ngờ vực này.
153. Có những quốc gia hùng mạnh và các doanh nghiệp to lớn hưởng lợi từ sự cô lập này và ưa chuộng đàm phán riêng biệt với từng quốc gia. Mặt khác, các nước nhỏ hoặc nghèo có thể ký hiệp định với những nước láng giềng trong khu vực, mà sẽ cho phép họ thương lượng như thể một khối và do đó tránh bị cắt đứt, cô lập và phụ thuộc vào các cường quốc. Ngày nay, không quốc gia nào có thể bảo đảm lợi ích chung cho dân mình nếu cứ mãi cô lập.
CHƯƠNG V
MỘT THỂ THỨC CHÍNH TRỊ TỐT ĐẸP HƠN
154. Sự tiến triển của cộng đồng huynh đệ hoàn cầu dựa trên việc thực thi tình hữu nghị xã hội từ phía các dân tộc và quốc gia, kêu mời một loại hình chính trị tốt đẹp hơn, một thể thức chính trị thật sự phục vụ thiện ích chung. Đáng buồn thay, nền chính trị ngày nay thường mang đậm hình thức cản trở sự thăng tiến hướng tới một thế giới khác.
CÁC LOẠI HÌNH DÂN TÚY VÀ TỰ DO CHỦ NGHĨA
155. Hiện trạng thiếu quan tâm đến những người dễ bị tổn thương có thể ẩn nấp phía sau chủ nghĩa dân túy, nhằm mị dân bóc lột họ vì các mục đích riêng, hoặc ẩn tàng đằng sau chủ nghĩa tự do chuyên phục vụ lợi ích kinh tế của những ai nắm quyền. Trong cả hai trường hợp này, thật khó để dự kiến một thế giới cởi mở, kiến tạo không gian cho mọi người, bao gồm những ai dễ bị tổn thương nhất, và biểu lộ lòng tôn trọng đối với các nền văn hóa khác nhau.
Người được lòng dân đối trọng với người theo chủ trương dân túy
156. Những năm gần đây, cụm từ “chủ nghĩa dân túy” và “người theo chủ trương dân túy” đã xâm nhập vào các phương tiện truyền thông và chuyện trò hằng ngày. Vì vậy, chúng đánh mất bất cứ giá trị nào mà họ có thể sở hữu, và trở thành nguồn phân cực khác biệt trong xã hội vốn đã chia rẽ bấy lâu. Mọi nỗ lực đưa ra nhằm phân loại toàn bộ các dân tộc, các nhóm, các xã hội và chính phủ như thể “theo chủ trương dân túy” hay chăng. Ngày nay, không ai có thể bày tỏ quan điểm về bất cứ chủ đề nào mà không bị phân loại theo dạng này hay dạng khác, hoặc bị mất uy tín một cách bất công, hoặc được tung hô lên tận trời cao.
157. Mưu toan xem chủ nghĩa dân túy như chìa khóa biện giải thực tại xã hội có vấn đề theo một cách khác: nó coi thường ý nghĩa chính đáng của hạn từ “nhân dân”. Bất kỳ nỗ lực nào loại bỏ khái niệm này ra khỏi cách nói thông thường đều dẫn đến việc loại trừ chính ý niệm dân chủ như là “chính phủ do nhân dân”. Nếu chúng ta ước muốn duy trì xã hội vượt lên trên một tập hợp đơn thuần gồm các cá thể, thì thuật ngữ “nhân dân” được minh định cần thiết. Những hiện tượng xã hội tạo ra nhiều khối đa số, cũng như xu thế lớn lao và biết bao khát vọng cộng đồng đang tồn tại. Đàn ông cũng như phụ nữ có khả năng đưa ra các mục tiêu chung vượt hẳn đặc điểm khác biệt của họ, do đó họ có thể tham gia vào diễn trình nỗ lực chung. Nhưng sẽ rất khó thực hiện một đề án dài hạn, trừ phi nó trở thành nguyện vọng tập thể. Mọi nhân tố này ẩn sâu dưới những từ ngữ mà chúng ta sử dụng như “nhân dân” và “được lòng dân”. Trừ phi chúng được xem xét – cùng với lời phê bình đúng đắn về trò mị dân – thì khía cạnh căn bản của thực tại xã hội sẽ bị làm ngơ.
158. Tuy nhiên, một sự hiểu lầm có thể hiện hữu ở đây. “‘Nhân dân’ chẳng phải là phạm trù luận lý học, cũng không phải là phạm trù huyền bí, nếu qua đó chúng ta muốn ám chỉ rằng mọi việc dân chúng làm đều tốt đẹp, hoặc nhân dân là một thực tại ‘như thiên thần’. Đúng hơn, nó là phạm trù huyền thoại…Khi phải giải thích điều bạn muốn nói với cụm từ nhân dân, bạn sử dụng các phạm trù luận lý học để giải nghĩa, và nhất thiết phải như vậy. Tuy nhiên, theo cách này, bạn chẳng thể nào giải thích ý nghĩa của việc thuộc về một dân tộc. Hạn từ ‘dân tộc’ mang ý nghĩa sâu sắc hơn, mà không thể phát biểu bằng các thuật ngữ luận lý học thuần túy. Trở nên một phần của dân tộc là trở thành bộ phận của bản sắc chung, phát sinh từ mối dây liên kết xã hội-văn hóa. Và đây chẳng phải tự động mà có, đúng hơn là một diễn trình tiệm tiến đầy khó khăn…hướng tới một dự án chung” [132].
159. Các nhà lãnh đạo “được lòng dân” hiện hữu, họ là những người có khả năng giải thích cảm quan, động lực văn hóa của một dân tộc, và các xu hướng quan trọng trong xã hội. Với mọi nỗ lực, việc họ phục vụ nhằm hợp nhất và lãnh đạo có thể trở thành nền tảng cho một viễn kiến lâu dài, ngõ hầu biến đổi và tăng trưởng, mà cũng bao gồm cả việc tạo không gian cho những người khác theo đuổi lợi ích chung. Nhưng điều này có thể thoái hóa thành một “chủ nghĩa dân túy” không lành mạnh, trong lúc các cá nhân khai thác nền văn hóa của một dân tộc trên bình diện chính trị, dưới bất cứ biểu ngữ ý thức hệ nào, vì lợi thế bản thân của họ hoặc nhằm tiếp tục nắm quyền. Vào những thời khắc khác, khi họ tìm kiếm sự nổi danh bằng cách kêu gọi các khuynh hướng đê hèn và ích kỷ nhất của một số bộ phận dân chúng. Điều này càng trở nên nghiêm trọng hơn khi nó đều dẫn đến việc chiếm đoạt các định chế và luật lệ, dưới bất cứ hình thức thô thiển hay tinh vi nào.
160. Những nhóm dân túy khép kín bóp méo hạn từ “nhân dân”, vì lẽ họ chẳng đề cập đến một dân tộc chân chính. Trên thực tế, “nhân dân” là một khái niệm bỏ ngỏ. Người dân năng nổ sinh động, hay một dân tộc có tương lai, luôn không ngừng cởi mở đón nhận xu hướng tổng hợp mới, thông qua khả năng hoan nghênh mọi đặc tính khác biệt. Bằng cách này, nó chẳng hề phủ nhận bản sắc riêng, nhưng mở ra với những ai đang vận động, thách thức, nới rộng và làm phong phú thêm, do đó, nó được tăng trưởng và phát triển hơn.
161. Một dấu hiệu khác của sự suy giảm khả năng lãnh đạo được lòng dân là mối quan tâm lợi thế ngắn hạn. Lợi thế đáp ứng nhu cầu thu được nhiều phiếu bầu hay ủng hộ, nhưng lại không thúc đẩy trong nỗ lực miệt mài liên tục nhằm tạo ra các nguồn tài nguyên mà người dân đang cần để phát triển, cũng như mưu sinh bằng chính nỗ lực và óc sáng tạo của họ. Về phương diện này, tôi đã nói rõ rằng “Tôi không có ý định đề xướng một chủ nghĩa dân túy vô trách nhiệm nào” [133]. Xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng đòi hỏi khả năng tăng trưởng kinh tế, mà nó hỗ trợ khai thác tiềm năng của từng khu vực, và như vậy bảo đảm sự bình đẳng lâu dài [134]. Đồng thời, “đề án phúc lợi vốn đáp ứng những nhu cầu cấp thiết nào đó, chỉ nên được xem như các đối ứng tạm thời” [135].
162. Vấn đề lớn lao nhất là công ăn việc làm. Điều thật sự “được lòng dân” – bởi lẽ nó cổ vũ lợi ích của nhân dân – cung cấp cho mọi người cơ hội dưỡng nuôi những hạt giống mà Thiên Chúa đã gieo vào trong mỗi chúng ta: các tài năng, sáng kiến và nguồn lực bẩm sinh của chúng ta. Đây là hỗ trợ tốt đẹp nhất mà chúng ta có thể chia san với người nghèo, là chặng đường tối ưu nhất dẫn tới cuộc sống phù hợp nhân phẩm. Do đó, tôi xin nhấn mạnh rằng “giúp đỡ người nghèo về mặt tài chính luôn phải là một giải pháp tạm thời trước những nhu cầu cấp bách. Mục tiêu rộng lớn hơn là trợ giúp họ có cuộc sống xứng đáng thông qua công ăn việc làm” [136]. Bởi lẽ những hệ thống sản xuất có thể thay đổi, nên các hệ thống chính trị phải tiếp tục hoạt động để định hình cấu trúc xã hội theo cách mà hết thảy mọi người đều có cơ hội đóng góp tài năng và nỗ lực của riêng mình. Vì “chẳng có cái nghèo nào tồi tệ hơn việc lấy mất việc làm và phẩm giá công việc” [137]. Trong xã hội phát triển đích thật, công ăn việc làm là một khía cạnh thiết yếu của đời sống xã hội, vì nó không chỉ là phương tiện kiếm cơm hàng ngày, mà còn là cách thức phát triển bản thân, xây dựng các mối tương quan lành mạnh, tự biểu đạt và trao đổi quà tặng thiên phú. Công ăn việc làm mang lại cho chúng ta ý thức về trách nhiệm chung đối với sự nghiệp phát triển thế giới, và sau cùng, đối với cuộc sống của chúng ta như một dân tộc.
Lợi ích và giới hạn của các phương thức tự do
163. Khái niệm “nhân dân” bao hàm tự nhiên quan điểm tích cực về các mối liên kết cộng đồng và văn hóa, thường bị những phương thức tự do của chủ nghĩa cá nhân bác bỏ, mà chúng vốn coi xã hội đơn thuần là tổng số của mọi lợi ích cùng tồn tại với nhau. Người ta nói tới sự tôn trọng tự do, nhưng nó lại không bén rễ sâu vào một trình thuật chung; trong bối cảnh nào đó, những ai bênh vực quyền lợi của mọi thành viên dễ bị tổn thương nhất trong xã hội thường bị chỉ trích là kẻ theo chủ nghĩa dân túy. Ý niệm nhân dân bị coi như một cấu trúc trừu tượng, điều gì đó chẳng thật sự tồn tại. Nhưng điều này tạo ra lưỡng phân cực không cần thiết. Chẳng thể nào đánh giá khái niệm “nhân dân” hay “người lân cận” đơn giản chỉ là trừu tượng hoặc lãng mạn thuần tuý, bằng cách thức mà tổ chức xã hội, các định chế khoa học và dân sự vốn có thể bị bác bỏ hoặc bị khinh miệt đối xử [138].
164. Mặt khác, đức ái hợp nhất cả hai chiều kích – trừu tượng và định chế – vì nó đòi hỏi một diễn trình hữu hiệu thay đổi lịch sử bao trùm mọi sự: định chế, luật pháp, kỹ thuật, kinh nghiệm, chuyên môn nghề nghiệp, phân tích khoa học, thủ tục hành chính, v.v...Đối với vấn đề đó, “cuộc sống riêng tư không thể tồn tại, trừ phi nó được bảo vệ bởi trật tự công cộng. Mái ấm gia đình sẽ chẳng thực sự ấm áp, nếu nó không được bảo vệ nhờ pháp luật, bởi một trạng thái yên bình dựa trên luật pháp, và được hưởng mức an sinh tối thiểu mà cách phân công lao động, trao đổi thương mại, công bằng xã hội và quyền công dân chính trị đảm bảo” [139].
165. Bác ái chân chính có khả năng kết hợp mọi yếu tố này lại trong mối quan tâm của nó đối với tha nhân. Trong trường hợp gặp gỡ cá nhân, thậm chí những dịp liên quan đến anh chị em ở xa hoặc bị lãng quên, thì nó có thể diễn ra như vậy nhờ vận dụng mọi nguồn liệu mà các định chế của xã hội quy cũ, tự do và sáng tạo khả dĩ hình thành. Chẳng hạn, ngay cả người Sa-ma-ri-a Nhân hậu cũng cần quán trọ gần đó để ra tay giúp đỡ, mà bản thân ông không thể cung cấp. Mến yêu người lân cận thật cụ thể và chẳng lãng phí bất cứ nguồn liệu nào cần thiết nhằm mang lại lịch sử đổi thay, mà nó có thể sinh lợi cho người nghèo và ai bị thiệt thòi. Tuy nhiên, đôi lúc các ý thức hệ cánh tả hoặc những học thuyết xã hội liên kết với phương thức hành động cá nhân chủ nghĩa và thủ tục vô hiệu quả chỉ ảnh hưởng đến thiểu số, trong khi phần lớn những ai bị bỏ quên vẫn lệ thuộc vào thiện chí của người khác. Điều này chứng tỏ nhu cầu phải có tinh thần huynh đệ cao cả, nhưng cũng cần một tổ chức thế giới hữu hiệu hơn nhằm hỗ trợ giải quyết vấn đề nan giải gây tai họa cho những người bị bỏ rơi đang đau khổ và thoi thóp tại các nước nghèo. Nó cũng cho thấy không một giải pháp, không phương pháp luận duy nhất có thể được chấp nhận, không công thức kinh tế nào được áp dụng cho tất cả theo cách phân biệt đối xử. Ngay cả các nghiên cứu khoa học nghiêm ngặt nhất cũng chỉ có thể đề xướng hướng hành động khác nhau mà thôi.
166. Như vậy, mọi sự đều phụ thuộc vào khả năng của chúng ta nhìn ra nhu cầu thay đổi tâm hồn, thái độ và lối sống. Nếu không, tuyên truyền chính trị, phương tiện truyền thông và những kẻ định hình công luận sẽ tiếp tục cổ vũ một nền văn hóa cá nhân chủ nghĩa không hề phê phán, lệ thuộc lợi ích kinh tế và định chế xã hội tự tung tự tác nhằm phục vụ những ai đã thụ hưởng quá nhiều quyền lực. Các lời chỉ trích của tôi về mô hình kỹ trị bao hàm hơn cả lối suy nghĩ đơn giản cho rằng nếu chúng ta kiểm soát được những thái quá của nó thì mọi sự sẽ yên ổn. Nguy cơ lớn hơn không phát sinh từ các đối tượng chuyên biệt, thực tại hay thể chế vật chất, nhưng đến từ cách thức mà chúng được sử dụng. Nó liên quan đến sự yếu đuối con người, xu hướng thiên về thói ích kỷ, vốn là một phần của điều mà truyền thống Ki-tô giáo gọi là “tư dục”: khuynh hướng cá vị chỉ quan tâm đến bản thân, nhóm, tư lợi nhỏ nhen của mình. Tư dục chẳng phải là một thiếu sót được giới hạn ở thời đại chúng ta. Nó đã có mặt từ thuở sơ khai của nhân loại, chỉ thay đổi và khoác lên những hình dạng khác nhau qua các thời đại, vận dụng bất kể phương tiện nào mà mỗi khoảnh khắc lịch sử mang lại thôi. Tuy nhiên, chúng ta có thể vượt qua tư dục với sự trợ lực của Thiên Chúa.
167. Giáo dục và dưỡng nuôi, biết quan tâm đến tha nhân, nhìn đời toàn diện và trưởng thành tâm linh: tất cả những điều này đều thiết yếu đối với các mối tương quan con người phẩm hạnh và tạo điều kiện cho chính xã hội chống lại mọi bất công, lầm lạc và lạm dụng kinh tế, kỹ thuật, chính trị cũng như quyền lực truyền thông. Một số phương thức tự do phớt lờ nhân tố của sở đoản con người này; chúng dự kiến thế giới tuân theo nền trật tự đã được định sẵn, và tự nó khả dĩ bảo đảm tương lai tươi sáng, cũng như cung cấp giải pháp cho mọi vấn đề.
168. Thị trường tự nó chẳng thể nào giải quyết mọi vấn đề, bất luận chúng ta được yêu cầu tin vào tín điều này của tín ngưỡng theo trường phái tân tự do ra sao. Dù thử thách là gì đi chăng nữa, trường phái tư tưởng nghèo nàn lặp đi lặp lại này luôn đưa ra những công thức giống nhau. Chủ nghĩa tân tự do chỉ tự tái tạo mình bằng cách dùng đến các lý thuyết ma thuật “chảy tràn” hoặc “nhỏ giọt” – mà không dùng danh xưng – như giải pháp duy nhất cho những vấn đề xã hội. Nó ít đánh giá được thực tại này là điều viện dẫn “chảy tràn” không giải quyết tính bất bình đẳng, mà nó từng làm gia tăng loại hình bạo lực mới, đe dọa chính kết cấu của xã hội. Vì vậy, nhất thiết phải có chính sách kinh tế chủ động nhằm “cổ vũ một nền kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho đặc tính đa dạng chế tác và sự sáng tạo kinh doanh” [140], cũng như tạo khả thể cho công ăn việc làm luôn được dồi dào, chứ không bị cắt giảm. Về mặt căn bản, đầu cơ tài chính nhắm tới lợi nhuận nhanh chóng tiếp tục gây hại, tàn phá. Thật vậy, “nếu không có các hình thức liên đới nội bộ và tin cậy lẫn nhau, thì thị trường chẳng thể nào hoàn thành đầy đủ chức năng kinh tế tương ứng của nó. Và ngày nay sự tin tưởng này đã không còn hiện hữu” [141]. Câu chuyện chẳng hề kết thúc theo cách của nó, còn các công thức giáo điều nơi lý thuyết kinh tế hiện hành được minh định không phải là bất khả ngộ. Tính mong manh của những hệ thống hoàn cầu khi đối mặt với trận đại dịch đã lộ ra: chẳng phải mọi sự đều có thể được giải quyết bằng tự do thị trường. Ngoài việc khôi phục cuộc sống chính trị lành mạnh không bị bức chế tài chính chi phối, thì nó cũng lột tả rằng “chúng ta phải đặt nhân phẩm trở lại trọng tâm và xây dựng trên trụ cột đó các cấu trúc xã hội thay thế mà chúng ta vốn cần đến” [142].
169. Thí dụ, trong một số phương thức kinh tế khép kín và đơn sắc, dường như chẳng có chỗ cho các phong trào bình dân nhằm kết hợp những nhân công thất nghiệp, lao động tạm thời và phi chính thức, cũng như nhiều người khác không dễ dàng tìm được chỗ đứng trong các cơ cấu hiện hành. Tuy nhiên, những phong trào ấy quản lý vô số hình thức kinh tế bình dân và sản xuất cộng đồng. Điều chúng ta cần là một mô hình tham gia xã hội, chính trị và kinh tế mà “có thể bao gồm các phong trào bình dân, hầu tiếp thêm sức mạnh cho cơ cấu quản lý địa phương, quốc gia và quốc tế với dòng năng lượng đạo đức phát sinh từ hành động bao gồm cả những ai bị loại trừ trong việc xây dựng một vận mệnh chung”. Trong khi đó cũng bảo đảm để “những cảm nghiệm liên đới lớn lên từ bên dưới, từ tầng đất cái của hành tinh – có thể đến với nhau, được phối hợp nhiều hơn, tiếp tục gặp gỡ nhau” [143]. Tuy nhiên, điều này phải diễn ra theo cách thức không được trái ngược với hoạt động khác biệt của chúng, tựa “những người gieo hạt mà họ biến chuyển, cổ vũ tiến trình thu hút hàng triệu hành động lớn nhỏ, đan xen đầy sáng tạo như lời lẽ trong một bài thơ” [144]. Vậy, các phong trào thế này là “những thi sĩ xã hội”, mà họ đã làm việc, đề xướng, cổ vũ và giải phóng theo cách riêng của bản thân. Họ giúp sự phát triển con người toàn diện thành hiện thực, vượt lên trên “ý niệm xem các chính sách xã hội như chính sách cho người nghèo, chứ chẳng bao giờ với người nghèo và của người nghèo, lại càng không phải là một phần của dự án nhằm tái hợp nhất mọi dân nước” [145]. Họ có thể rầy rà phiền phức, và một số “lý thuyết gia” có lẽ khó phân loại họ, nhưng chúng ta phải đủ can đảm để thừa nhận rằng, nếu không có họ, “dân chủ sẽ teo tóp, biến thành hạn từ đơn lẻ, một lề thói; nó đánh mất đặc tính biểu trưng và vỡ vụn tan rã, vì nó bỏ rơi con người trong cuộc đấu tranh giành phẩm giá hằng ngày, cũng như trong việc xây dựng tương lai của họ”.
QUYỀN LỰC QUỐC TẾ
170. Một lần nữa tôi cho rằng “cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008 đã mang lại cơ hội phát triển nền kinh tế mới, chú ý nhiều hơn đến các nguyên tắc đạo đức, cũng như cách thức mới nhằm điều chỉnh những việc thực hành tài chính đầu cơ tích trữ và của cải ảo. Nhưng đối ứng với cuộc khủng hoảng không liên quan tới vấn đề tái xem xét các tiêu chuẩn lỗi thời, mà chúng vẫn tiếp tục thống trị thế giới” [147]. Thật vậy, dường như những chiến lược thực tế được phát triển khắp thế giới sau cuộc khủng hoảng đã cổ vũ chủ nghĩa cá nhân nhiều hơn, nhưng ít hội nhập hơn và tăng cường tự do cho kẻ nắm quyền thực sự, họ luôn tìm cách trốn thoát mà chẳng hề hấn chi.
171. Tôi cũng xin nhấn mạnh rằng “trao cho mỗi người phần của họ – trích dẫn định nghĩa cổ điển về công lý – nghĩa là không một cá nhân hay nhóm người nào có thể tự xem mình tuyệt đối, cho mình quyền phớt lờ phẩm giá và quyền lợi của các cá nhân khác hoặc những nhóm xã hội của họ. Sự phân bổ quyền lực hữu hiệu (đặc biệt quyền lực chính trị, kinh tế, quốc phòng và kỹ thuật) giữa tính đa nguyên chủ thể và việc kiến tạo một hệ thống pháp lý nhằm điều chỉnh các yêu sách và lợi ích, là một cách thức cụ thể để hạn chế quyền lực. Tuy nhiên, thế giới ngày nay trình bày cho chúng ta đầy dẫy quyền lợi sai trái và đồng thời nhiều bộ phận rộng lớn dễ bị tổn thương, những nạn nhân của quyền lực bị xử lý một cách tồi tệ” [148].
172. Thế kỷ XXI “đang chứng kiến sự suy yếu quyền lực của các nhà nước quốc gia, chủ yếu vì các bộ phận kinh tế và tài chính mang tính xuyên quốc gia thường lấn lướt bộ phận chính trị. Trước tình hình đó, điều thiết yếu là đặt ra những định chế quốc tế quy cũ hữu hiệu và chặt chẽ hơn, với các viên chức được bổ nhiệm công bằng theo thỏa thuận giữa chính phủ quốc gia, và họ cũng được trao quyền áp đặt những biện pháp trừng phạt” [149]. Khi nói tới khả năng của một số hình thức thẩm quyền thế giới được luật pháp quy định [150], chúng ta không nhất thiết phải nghĩ đến thẩm quyền cá nhân. Tuy nhiên, một cơ quan như vậy ít nhất cần cổ vũ các tổ chức thế giới hữu hiệu hơn, được trang bị với quyền hành cung ứng cho lợi ích chung hoàn cầu, xóa bỏ đói nghèo và bảo vệ chắc chắn mọi nhân quyền căn bản.
173. Về khía cạnh này, tôi cũng xin lưu ý nhu cầu cải tổ “Cơ quan Liên hiệp quốc, tương tự như các định chế kinh tế và tài chính quốc tế, ngõ hầu khái niệm gia đình của mọi quốc gia có thể được thành sự” [151]. Chẳng cần bàn luận, điều này đòi hỏi những giới hạn pháp lý rõ ràng, nhằm tránh quyền hạn chỉ cho một số quốc gia đồng chọn và ngăn chặn các áp đặt văn hóa, hoặc hạn chế quyền tự do căn bản của những nước yếu thế hơn trên cơ sở khác biệt về ý thức hệ. Vì “cộng đồng quốc tế là một cộng đồng pháp lý, được thành lập dựa trên tính chủ quyền của mỗi quốc gia thành viên, không bị ràng buộc bởi lệ thuộc mà phủ nhận hoặc hạn chế sự độc lập của quốc gia đó” [152]. Đồng thời, “theo các nguyên tắc nêu trong phần Dẫn nhập và những Điều khoản đầu tiên của Hiến chương thành lập, thì công việc của Liên hiệp quốc có thể được xem như sự phát triển và cổ vũ tính thượng tôn pháp luật, dựa trên nhận thức công lý là điều kiện thiết yếu để đạt được lý tưởng huynh đệ phổ quát…Cần phải bảo đảm nguyên tắc thượng tôn pháp luật không thể bàn cãi và bền bỉ đàm phán, hòa giải và phân xử như Hiến chương Liên hiệp quốc đã đề xướng, cấu thành nên một chuẩn mực pháp lý nền tảng thật sự” [153]. Cần phải ngăn chặn việc Cơ quan này bị phi hợp pháp hóa, vì các vấn đề cũng như thiếu sót của nó có thể được cùng nhau bàn thảo và giải quyết.
174. Lòng can đảm và quảng đại cần thiết, hầu được tự do thiết lập các mục tiêu chung và đảm bảo tuân thủ những chuẩn mực thiết yếu nhất định nào đó trên toàn thế giới. Để nó thực sự hữu ích thì cần đề cao “nhu cầu trung thành với các thỏa thuận đã được ký kết (phải tuân giữ hiệp ước [pacta sunt servanda])” [154], và tránh “lời cám dỗ nại tới luật sức mạnh hơn là sức mạnh của luật” [155]. Nghĩa là phải củng cố “những công cụ quy chuẩn, ngõ hầu mang lại giải pháp hòa bình cho các cuộc luận chiến…nhằm tăng cường phạm vi và hiệu lực trói buộc của chúng” [156]. Trong số công cụ quy chuẩn này, nên ưu tiên những hiệp định đa phương giữa các quốc gia, hơn là hiệp định song phương, vì lẽ chúng cam đoan cổ vũ cho lợi ích chung phổ quát đích thật và bảo vệ những quốc gia yếu thế hơn.
175. Nhờ Chúa quan phòng, nhiều nhóm và tổ chức trong xã hội dân sự giúp bù đắp các thiếu sót của cộng đồng quốc tế, thiếu sự phối hợp trong những tình huống phức tạp, thiếu quan tâm đến nhân quyền căn bản, cũng như mọi nhu cầu cần kíp của một số nhóm nào đó. Ở đây, chúng ta có thể thấy ứng dụng cụ thể của nguyên tắc phụ đới, mà nó minh giải cho hoạt động và tham gia của các cộng đồng cũng như tổ chức ở cấp thấp, như là phương tiện nhằm tích hợp và bổ sung cho hoạt động quốc gia. Các nhóm và tổ chức này thường tiến hành nỗ lực đáng khen trong việc phục vụ lợi ích chung, và thành viên họ đôi khi biểu lộ tinh thần anh hùng chuyên chính, đồng thời lột tả điều gì đó vĩ đại mà nhân loại chúng ta vẫn có khả năng thực hiện.
BÁC ÁI XÃ HỘI VÀ CHÍNH TRỊ
176. Đối với nhiều người ngày nay, chính trị là từ ngữ gây khó chịu, thường do những sai lầm, vấn nạn tham nhũng và tính kém hiệu quả của một số chính trị gia. Vô số toan tính làm mất uy tín chính trị tồn tại, thay thế bằng kinh tế học hoặc bóp méo nó thành ý thức hệ này hay ý thức hệ kia. Tuy nhiên, liệu thế giới chúng ta có thể hoạt động mà chẳng cần tới chính trị? Phải chăng một tiến trình tăng trưởng hữu hiệu hướng tới tình huynh đệ phổ quát và hòa bình xã hội không cần sinh hoạt chính trị lành mạnh? [157]
Nền chính trị chúng ta cần
177. Một lần nữa tôi xin nhận xét ở đây rằng “chính trị không nên lệ thuộc kinh tế, mà kinh tế cũng không nên phụ thuộc vào bức chế của mô hình kỹ trị dựa trên hiệu năng” [158]. Mặc dù phải rõ ràng bác bỏ việc lạm dụng quyền lực, tham nhũng, xem thường luật pháp và tính thiếu hiệu năng, nhưng “kinh tế mà không có chính trị thì không thể xác minh, vì điều này sẽ khiến chúng ta chẳng thể nào ủng hộ các cách thức khác trong việc xử lý vô số khía cạnh của cuộc khủng hoảng hiện nay” [159]. Thay vào đó, “một nền chính trị cần có tầm nhìn xa trông rộng và sở hữu khả năng thực hiện phương thức liên ngành, toàn diện, mới mẻ, nhằm xử lý các khía cạnh khác nhau của cuộc khủng hoảng” [160]. Nói cách khác, một “nền chính trị lành mạnh…có khả năng cải cách và phối hợp các định chế, đồng thời cổ vũ thói quen lệ thường tốt nhất và vượt qua áp lực thái quá, cũng như tính trì trệ quan liêu” [161]. Chúng ta chẳng trông mong kinh tế thực hiện điều này, nhưng cũng không cho phép kinh tế tiếp quản quyền lực thực sự của nhà nước.
178. Đối mặt với nhiều hình thức chính trị nhỏ nhen chỉ biết khư khư vào lợi ích trước mắt, tôi xin nhắc lại rằng “nghệ thuật lãnh đạo đất nước chân chính được bộc lộ trong những thời khắc nguy nan, lúc chúng ta giữ vững mọi nguyên tắc cao cả và nghĩ suy đến lợi ích chung lâu dài. Các thế lực chính trị chẳng nhận thấy việc đảm nhận nhiệm vụ này trong công cuộc xây dựng đất nước là chuyện dễ dàng” [162], lại càng không dễ dàng chút nào khi tạo ra một dự án chung cho gia đình nhân loại, ngay lúc này và trong tương lai. Nghĩ tới những hậu duệ chúng ta, họ sẽ không phục vụ mục đích bầu cử, nhưng đó là điều công lý chân chính đòi hỏi. Như chư huynh Giám mục Bồ Đào Nha từng dạy, trái đất “được mỗi thế hệ vay mượn, tiếp nhận, rồi trao lại cho thế hệ tiếp theo” [163].
179. Xã hội hoàn cầu đang khốn khổ vì những khiếm khuyết nghiêm trọng về cơ cấu, mà chúng không thể được giải quyết bằng các giải pháp từng phần hoặc sửa chữa vội vã. Quá nhiều thứ cần thay đổi, qua lối cải cách nền tảng và canh tân trọng yếu. Chỉ một nền chính trị lành mạnh bao gồm những lĩnh vực và kỹ năng đa dạng nhất mới có khả năng giám sát diễn trình này. Nền kinh tế mà là một bộ phận trọn vẹn của chương trình chính trị, xã hội, văn hóa và đại chúng hướng đến lợi ích chung, mới có thể mở đường cho “các khả thể khác nhau không dính dáng tới việc ngăn cản tính sáng tạo của con người và lý tưởng tiến bộ của nó, nhưng tốt hơn hết là điều hướng năng lực đó theo các khí cụ mới” [164].
Tình yêu chính trị
180. Thừa nhận rằng mọi người đều là anh chị em của chúng ta, và kiếm tìm các hình thức hữu nghị xã hội chấp nhận tất cả, chẳng đơn thuần là điều không tưởng. Nó đòi hỏi lời cam kết dứt khoát nhằm đưa ra những phương thế hữu hiệu cho mục đích này. Bất cứ nỗ lực nào theo đường hướng trên đều trở thành việc thực thi bác ái cao quý. Vì lẽ trong lúc các cá nhân có thể giúp đỡ tha nhân đang gặp khó khăn, khi họ cùng tham gia khởi xướng những tiến trình xã hội cổ vũ tình huynh đệ và công bằng cho mọi người, thì quả thật họ đã bước vào “lĩnh vực bác ái trên bình diện rộng lớn nhất, tức là bác ái chính trị” [165]. Điều này bao hàm hoạt động cho một trật tự xã hội và chính trị, mà linh hồn của nó chính là bác ái xã hội [166]. Lần nữa, tôi xin kêu gọi sự ngưỡng mộ mới mẻ về chính trị như “một ơn gọi cao quý và là một trong những dạng thức bác ái cao cả nhất, bởi lẽ nó tìm kiếm thiện ích chung” [167].
181. Mọi cam kết được gợi hứng nhờ học thuyết xã hội của Giáo hội đều “phát xuất từ lòng bác ái, mà theo lời dạy của Đức Giê-su, nó vốn là tổng hợp luận của toàn bộ Lề luật (x. Mt 22, 36-40)” [168]. Điều này có nghĩa thừa nhận rằng “tình yêu vốn đầy ắp những cử chỉ bé nhỏ quan tâm lẫn nhau, nhưng thấm đượm tính dân sự và chính trị; hơn nữa, tự nó thể hiện trong mọi hành động nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn” [169]. Vì vậy, lòng bác ái được biểu lộ không chỉ trong những mối tương quan gần gũi thân thiết, mà còn trong “các liên hệ vĩ mô: mang tính xã hội, kinh tế và chính trị” [170].
182. Lòng bác ái chính trị này ra đời từ ý thức xã hội vượt trên mọi não trạng chủ nghĩa cá nhân: “‘Bác ái xã hội khiến chúng ta chân quý thiện ích’, nó đưa ta đi tìm kiếm lợi ích của mọi người một cách hữu hiệu, mọi người ở đây không những được xem như các cá thể hay tư nhân, mà còn được đặt trong chiều kích xã hội nhằm hợp nhất họ nữa” [171]. Mỗi chúng ta hoàn toàn là con người khi chúng ta là một phần của dân tộc; đồng thời, chẳng có dân tộc nào mà lại không tôn trọng cá tính riêng của mỗi người. “Dân tộc” và “con người” là thuật ngữ liên quan với nhau. Tuy nhiên, ngày nay tồn tại vô số mưu toan nhằm giản lược con người thành những cá nhân cô lập dễ bị thao túng bởi các thế lực chỉ biết theo đuổi lợi ích giả mạo. Nhưng trên mọi bình diện của đời sống xã hội, nền chính trị đúng đắn sẽ tìm cách xây dựng cộng đồng, nhằm điều chỉnh cũng như định hướng lại việc toàn cầu hóa, và do đó tránh được những hậu quả huỷ hoại nó.
Tình yêu hữu hiệu
183. “Bác ái xã hội” [172] khiến chúng ta có thể vươn tới nền văn minh tình thương, mà hết thảy chúng ta đều cảm nhận được lời mời gọi thông phần. Với sự thúc bách hướng tới tính phổ quát, lòng bác ái có khả năng xây dựng một thế giới mới [173]. Chẳng phải cảm tính đơn thuần, mà nó là phương thế tốt nhất nhằm khám phá những nẻo đường lành mạnh cho sự phát triển của mọi người. Bác ái xã hội là một “sức mạnh hữu năng mang nguồn cảm hứng tạo ra nhiều cách thức mới, hầu tiếp cận các vấn nạn của thế giới ngày nay, cũng như đổi mới sâu sắc những cơ cấu, tổ chức xã hội và hệ thống luật pháp từ bên trong” [174].
184. Bác ái là cốt lõi của mọi xã hội lành mạnh và cởi mở, nhưng ngày nay “nó dễ bị bác bỏ như thể không thích hợp để biện giải và đưa ra định hướng cho trách nhiệm luân lý” [175]. Khi đồng hành với lời cam kết bênh vực sự thật, lòng bác ái vượt trên cảm giác cá nhân, và do đó, chẳng cần “thành mồi nhử cho những xúc cảm và ý kiến chủ quan ngẫu nhiên” [176]. Thật vậy, mối liên hệ chặt chẽ với chân lý cổ vũ tính phổ quát của nó, và bảo toàn khỏi bị “giới hạn trong lĩnh vực hẹp hòi thiếu các mối tương quan” [177]. Còn không, nó sẽ bị “loại trừ khỏi những kế hoạch và tiến trình cổ vũ phát triển con người trên phạm vi hoàn cầu, trong cuộc đối thoại giữa tri thức và tập quán” [178]. Không có chân lý, xúc cảm thiếu vắng nội dung liên hệ và xã hội. Vì vậy, bác ái rộng mở với sự thật sẽ bảo vệ nó khỏi “chủ nghĩa duy tín, vốn tước đoạt chiều kích nhân bản và phổ quát của nó” [179].
185. Bác ái cần ánh sáng chân lý mà chúng ta không ngừng tìm kiếm. “Ánh sáng đó vừa là ánh sáng của lý trí, vừa là ánh sáng của đức tin” [180], và không thừa nhận bất cứ hình thức nào của thuyết tương đối. Tuy nhiên, nó tôn trọng sự phát triển của các ngành khoa học, cũng như những đóng góp thiết yếu của chúng trong việc tìm ra phương thế thực tiễn chắc chắn nhất để đạt được kết quả mong muốn. Vì khi lợi ích của người khác bị đe dọa, thì những ý định tốt lành thôi chưa đủ. Mọi cố gắng cụ thể phải được thực hiện, ngõ hầu mang lại bất cứ điều gì mà họ và các quốc gia của họ cần để phát triển.
THỰC THI TÌNH YÊU CHÍNH TRỊ
186. Một loại tình yêu “được luận ra” hiện hữu: những hành vi của nó phát xuất trực tiếp từ đức bác ái và hướng tới mọi cá nhân cũng như dân tộc. Mặc khác còn có tình yêu “được lệnh truyền”, mà nó bộc lộ trong hành động bác ái vốn thúc đẩy con người tạo ra các định chế lành mạnh hơn, quy định công bằng hơn, nhiều cơ cấu hỗ trợ hơn [181]. Vì vậy, “đây là một hành động yêu thương trọng yếu, không thể thiếu trong nỗ lực tổ chức và kiến tạo cơ cấu xã hội, ngõ hầu người lân cận sẽ chẳng còn thấy mình đang cơ cực nữa” [182]. Vốn là hành động yêu thương nhằm giúp đỡ ai đau khổ, nhưng nó cũng là hành vi bác ái, ngay cả khi chúng ta không biết đến người ấy, hầu làm thay đổi các điều kiện xã hội đã gây ra khổ đau. Nếu ai đó giúp cụ già qua sông, thì đấy là nghĩa cử bác ái tốt lành. Mặt khác, chính trị gia nào xây dựng bắt cầu, thì đó cũng là hành vi bác ái. Trong khi một người có thể giúp đỡ tha nhân bằng cách mang lại của ăn, thì chính trị gia tạo ra việc làm cho người khác, và thực hành loại hình bác ái cao quý, mà nó tôn vinh hoạt động chính trị của ông/bà ấy.
Hy sinh từ đức mến
187. Vốn là cốt lõi thiêng liêng của nền chính trị, đức ái luôn là tình yêu ưu tiên dành cho những ai thiếu thốn nhất; nó củng cố mọi việc chúng ta làm thay cho họ [183]. Chỉ một ánh nhìn mà đức ái cải hoá mới có thể giúp nhận ra phẩm giá của tha nhân, do đó, người nghèo được thừa nhận và đánh giá cao trong nhân phẩm, được tôn trọng nơi bản sắc và nền văn hóa của họ, rồi họ thực sự hòa nhập vào xã hội. Cái nhìn này là trọng tâm của tinh thần chính trị chân chính. Nó trông thấy những nẻo đường rộng mở, khác biệt với lối đi của chủ nghĩa thực dụng vô hồn. Điều này khiến chúng ta nhận ra rằng “vụ tai tiếng đói khổ chẳng thể giải nào quyết bằng cách cổ vũ các chiến lược ngăn chặn mà vốn chỉ làm an lòng người nghèo, thuần phục họ và không gây hại. Buồn biết bao khi chúng ta phát hiện đằng sau những công việc được cho là đầy ắp lòng vị tha, lại giản lược, đẩy tha nhân vào tình trạng thụ động” [184]. Các lộ trình mới cần thiết giúp họ tự thể hiện và tham gia vào xã hội. Công cuộc giáo dục phục vụ những điều này bằng cách hỗ trợ mỗi người định hình tương lai của chính mình. Tương tự ở đây, chúng ta cũng thấy được tầm quan trọng của nguyên tắc phụ đới, mà nó không thể tách rời khỏi nguyên tắc liên đới.
188. Những xem xét trên giúp chúng ta nhận ra nhu cầu cấp thiết phải chống lại mọi đe dọa hoặc xâm phạm đến các nhân quyền căn bản. Chính trị gia được kêu gọi “chăm lo nhu cầu của từng cá nhân và cả dân tộc. Phục vụ những ai đang gặp túng thiếu đòi hỏi sức mạnh và sự ân cần, nỗ lực và lòng quảng đại giữa một não trạng duy chức năng và tư hữu hóa, mà nó hiển nhiên dẫn tới 'nền văn hóa vứt bỏ'...Điều này đòi hỏi tinh thần chịu trách nhiệm với thời hiện tại vốn đầy dẫy tình cảnh bị gạt ra ngoài hoàn toàn và gây ra bao nỗi lo âu xao xuyến, cũng như bao gồm khả năng mang lại phẩm giá cho nó” [185]. Tương tự, nó tạo ra nỗ lực mãnh liệt nhằm bảo đảm rằng “mọi thứ được thực hiện để bảo vệ cương vị xã hội và phẩm giá con người” [186]. Chính trị gia là những người hành động, những nhà kiến thiết với các mục tiêu đầy tham vọng, sở hữu tầm nhìn bao quát, thực tiễn và thực tế, vượt qua biên giới của xứ sở họ. Mối quan tâm lớn lao nhất của chính trị gia chẳng phải kết quả sụt giảm trong các cuộc thăm dò, mà là tìm ra giải pháp hữu hiệu cho “hiện tượng loại trừ kinh tế-xã hội, đầy những hậu quả đáng buồn như: nạn buôn người, buôn bán bộ phận và tế bào mô con người, tình trạng bóc lột tình dục trẻ em gái trai, lao động nô dịch, bao gồm cả nạn mại dâm, buôn bán ma túy vũ khí, khủng bố và tội phạm quốc tế có tổ chức. Mức độ nghiêm trọng của những tình trạng này, và chỉ số sinh mạng vô tội tử vong, mà chúng ta phải tránh mọi cám dỗ, đừng sa vào thuyết duy danh của những kẻ chỉ đưa ra tuyên bố nhằm giải khuây lương tâm của chúng ta. Cần bảo đảm các định chế của chúng ta thực sự hữu hiệu trong cuộc đấu tranh chống lại tất cả những tai họa này” [187]. Và như vậy, nó đòi hỏi tận dụng khôn khéo các nguồn tài nguyên bao la nhờ những tiến bộ kỹ thuật mang lại.
189. Chúng ta vẫn còn cách xa với tính hoàn cầu hóa các nhân quyền căn bản nhất. Đó là lý do tại sao chính trị thế giới cần phải biến việc xóa bỏ hữu hiệu nạn đói thành một trong những mục tiêu hàng đầu và cấp bách của nó. Thật vậy, “khi đầu cơ tài chính thao túng giá cả lương thực, xem nó như một loại hàng hóa khác, thì hàng triệu người đau khổ và chết vì đói. Đồng thời, hàng tấn thức ăn bị vứt bỏ. Điều này tạo ra tai tiếng thực sự. Nạn đói là một tội ác; còn thực phẩm là quyền bất khả chuyển nhượng” [188]. Trong khi tiếp tục tranh cãi về ngữ nghĩa hoặc ý thức hệ, thông thường chúng ta đã để anh chị em mình chết vì đói khát, rơi vào cảnh màn trời chiếu đất hoặc chẳng được chăm sóc sức khỏe. Bên cạnh những nhu cầu căn bản vẫn chưa được đáp ứng này, nạn buôn người còn biểu trưng cho một căn nguyên tủi nhục khác đối với nhân loại, mà nó mang tầm vóc chính trị quốc tế, vượt lên trên các diễn từ đẹp đẽ và ý hướng tốt lành, ắt hẳn chẳng dễ dàng bỏ qua. Những điều này rất quan trọng và không được trì hoãn nữa.
Tình yêu hòa nhập và hợp nhất
190. Bác ái chính trị còn được bộc lộ qua tinh thần cởi mở với hết mọi người. Các nhà lãnh đạo chính phủ nên tiên phong thực thi những hy sinh cổ vũ gặp gỡ và tìm kiếm sự đồng thuận ít nhất về một số vấn đề. Họ nên sẵn sàng lắng nghe các quan điểm khác và tạo cơ hội cho mọi người. Qua sự hy sinh và tính nhẫn nại, họ có thể trợ giúp kiến tạo một thực tại đa diện tươi đẹp, mà nơi đó mọi người đều có chỗ đứng. Ở điểm này, các cuộc đàm phán kinh tế không hữu hiệu, đòi hỏi một điều khác, đó là: trao đổi tài năng vì lợi ích chung. Trông nó có vẻ ngây ngô và không tưởng, nhưng chúng ta chẳng thể nào từ bỏ mục tiêu cao cả này.
191. Vào thời điểm mà vô số loại hình bất khoan dung cực đoan đang gây hại cho các mối liên hệ giữa những cá nhân, nhóm và dân tộc, chúng ta hãy cùng cam kết sống và giảng dạy giá trị của việc tôn trọng tha nhân, một tình yêu sẵn sàng chào đón những khác biệt, cũng như ưu tiên phẩm giá của mỗi con người hơn các ý tưởng, quan điểm, tập quán và ngay cả tội lỗi họ. Thậm chí khi vô số hình thức cuồng tín, sống khép kín và tình trạng phân hóa xã hội-văn hóa ngày càng gia tăng trong xã hội ngày nay, thì một chính trị gia tốt sẽ tiên phong, cũng như nhấn mạnh tới việc chú tâm lắng nghe các tiếng nói khác nhau. Những bất đồng có thể gây ra xung đột, nhưng tính độc dạng lại chứng tỏ ngột ngạt và dẫn đến suy đồi văn hóa. Ước gì chúng ta đừng an vị với tình cảnh tự đóng khung trong một phân mảnh thực tại.
192. Về khía cạnh này, vị Imam Đáng kính Ahmad Al-Tayyeb và tôi đã kêu gọi “các kiến trúc sư của chính sách quốc tế và nền kinh tế thế giới làm việc tích cực, hầu truyền bá nền văn hóa khoan dung và chung sống trong hòa bình; cũng như can thiệp sớm nhất có thể nhằm ngăn chặn việc đổ máu người vô tội” [189]. Khi một chính sách chuyên biệt nhân danh phúc lợi quốc gia mình mà gieo rắc hận thù và sợ hãi đối với các quốc gia khác, thì cần quan tâm tới nó, ngõ hầu phản ứng kịp thời và ngay lập tức để hiệu chỉnh đường lối.
KẾT QUẢ LÀ THỨ YẾU SO VỚI TÍNH ĐƠM HOA KẾT TRÁI
193. Ngoài hoạt động không mệt mỏi, các chính trị gia cũng là những người đàn ông và phụ nữ bình thường. Nhưng họ được mời gọi thực thi bác ái trong các mối tương quan liên ngã hàng ngày. Là tư cách con người, họ cần cân nhắc: “thế giới hiện đại, với những tiến bộ kỹ thuật, ngày càng thiên về vận hành tính thỏa mãn khát khao của con người, hiện được xếp loại và phân chia giữa nhiều dịch vụ khác nhau. Người ta ngày càng ít được gọi bằng tên, hữu thể độc nhất này ít được đối xử như một con người có những xúc cảm, buồn đau, vấn đề nan giải, niềm vui và gia đình họ. Bệnh tình của họ chỉ được biết đến để chữa trị, tài chính của họ chỉ cần lo chu cấp, hiện trạng thiếu mái ấm gia đình chỉ mang lại cho họ nơi tá túc, mong muốn tiêu khiển và giải trí của họ chỉ là để thỏa mãn chúng”. Tuy nhiên, không bao giờ được quên rằng “yêu thương những ai tầm thường nhất như người anh em/chị em, như thể chẳng có ai khác trên thế giới này ngoài anh/chị ấy, thì không thể bị coi là lãng phí thời gian” [190].
194. Chính trị cũng phải dành chỗ cho tình mến tha nhân dịu dàng. “Nét dịu dàng là gì? Đó là đức ái gần gũi và trở thành hiện thực. Một chuyển động bắt đầu từ con tim chúng ta, rồi đến đôi mắt, đôi tai và đôi tay…Sự dịu dàng là lộ trình ưu tuyển của những người đàn ông và phụ nữ mạnh mẽ, can đảm nhất” [191]. Giữa lo toan thường nhật nơi đời sống chính trị, “người bé mọn nhất, người yếu đuối nhất, người nghèo khổ nhất ắt hẳn đánh động tâm hồn chúng ta: quả thật, họ có ‘quyền’ thỉnh cầu con tim và linh hồn chúng ta. Họ là anh chị em chúng ta, như vậy, chúng ta phải yêu thương và chăm sóc họ” [192].
195. Tất cả sự việc này có lẽ giúp chúng ta nhận ra điều quan trọng chẳng phải là liên tục đạt được những kết quả lớn lao, vì đâu hẳn lúc nào chúng cũng khả hữu. Trong hoạt động chính trị, chúng ta nên nhớ rằng, “bất luận diện mạo ra sao, mỗi người đều hết sức tốt lành và đáng được chúng ta yêu mến. Do đó, nếu tôi có thể giúp đỡ ít nhất một người có cuộc sống tốt đẹp hơn, thì điều đó đã minh chứng cho sự cống hiến đời tôi. Được trở nên dân Chúa tín trung quả là điều kỳ diệu. Chúng ta đạt tới mức trọn vẹn khi giật sập tường luỹ và tâm hồn ta tràn ngập bao nhân diện và danh tánh!” [193]. Các mục tiêu to lớn trong ước mơ và kế hoạch của chúng ta có thể chỉ đạt được một phần. Tuy nhiên trên cả điều này, những ai yêu mến, và những người không còn xem chính trị đơn thuần là truy tìm quyền lực, thì “có lẽ chắc rằng chẳng một hành vi bác ái, cũng như bất cứ hành động quan tâm chân thành nào của chúng ta đối với người khác lại bị mất hút. Không một hành vi yêu thương nào đối với Thiên Chúa sẽ mất đi, không nỗ lực quảng đại nào là vô nghĩa, không có sự chịu đựng đau đớn nào bị lãng phí cả. Tất cả những điều này đều bao quanh thế giới chúng ta như một sinh lực” [194].
196. Vì lý do này, thật sự cao thượng khi đặt niềm hy vọng vào sức mạnh tiềm ẩn của những hạt giống thiện hảo chúng ta gieo trồng, và do đó, khởi đầu các diễn trình mà thành quả của chúng sẽ được người khác gặt hái. Nền chính trị tốt đẹp kết hợp tình yêu với lòng hy vọng và với niềm tin trong kho thiện hảo vốn hiện diện nơi tâm hồn con người. Thật vậy, “được xây dựng trên việc tôn trọng luật pháp và đối thoại thẳng thắn giữa các cá nhân, đời sống chính trị chân chính liên tục được đổi mới, bất cứ lúc nào nhận ra mỗi phụ nữ và đàn ông, cũng như mỗi thế hệ nối tiếp, đều mang lại hứa hẹn của vô vàn năng lực mới mẻ đậm chất liên kết, trí thức, văn hóa và tâm linh” [195].
197. Theo lối nhìn này, chính trị là một điều gì đó cao quý hơn những kiểu tạo dáng, tiếp thị và truyền thông xoay quanh. Các trò này chẳng gieo rắc gì ngoài sự chia rẽ, xung đột và thói hoài nghi ảm đạm không thể huy động mọi người theo đuổi mục tiêu chung. Lúc nghĩ đến tương lai, đôi khi chúng ta nên tự hỏi bản thân, “Tại sao tôi làm điều này?”, “Mục tiêu thực sự của tôi là gì?” Vì thời gian trôi qua, ngẫm lại quá khứ, các nghi vấn sẽ chẳng phải là: “Bao nhiêu người tán thành tôi?”, “Bao nhiêu người đã bỏ phiếu cho tôi?”, “Bao nhiêu người sở hữu hình ảnh tích cực về tôi?” Nhưng câu hỏi thực sự, và ẩn tàng nỗi đau sẽ là, “Tôi đã đặt bao nhiêu tình yêu thương vào công việc của mình?” “Tôi đã làm gì cho sự tiến bộ của dân tộc chúng ta?” “Tôi đã để lại dấu ấn gì trong đời sống xã hội?” “Tôi đã tạo ra mối liên kết thực sự nào?" “Tôi đã giải phóng những năng lượng tích cực nào?” “Tôi đã gieo hạt giống an bình xã hội ít nhiều ra sao?” “Tại chức vụ được giao phó, tôi đã hoàn thành được điều gì tốt đẹp?”
CHƯƠNG VI
ĐỐI THOẠI VÀ TÌNH HỮU NGHỊ TRONG XÃ HỘI
198. Tiếp cận, chuyện trò, lắng nghe, quan sát, tiến tới nhận biết và hiểu nhau, cũng như tìm thấy cơ sở chung: tất cả những điều này được tóm gọn trong một từ “đối thoại”. Nếu muốn gặp gỡ và giúp đỡ nhau, chúng ta phải đối thoại. Ở đây, tôi không cần nhấn mạnh đến các lợi ích của việc đối thoại. Tôi chỉ phải nghĩ về thế giới của chúng ta sẽ ra sao nếu chẳng có cuộc đối thoại đầy kiên nhẫn của nhiều người quảng đại đang giữ gìn cho gia đình và cộng đồng liên đới với nhau. Khác với sự bất đồng và xung đột, cuộc đối thoại đầy can đảm và nhẫn nại không tạo ra những hàng tít lớn, nhưng lại lặng lẽ trợ giúp thế giới sống tốt đẹp hơn chúng ta tưởng tượng.
ĐỐI THOẠI XÃ HỘI CHO MỘT NỀN VĂN HÓA MỚI
199. Một số gắng gượng trốn chạy thực tại, ẩn trú trong thế giới tí hon của riêng họ; còn những người khác phản ứng bằng bạo lực hủy diệt. Tuy nhiên, “giữa tình cảnh thờ ơ ích kỷ và sự phản kháng bạo động, luôn có một chọn lựa khả hữu khác: đó là lựa chọn đối thoại. Đối thoại giữa các thế hệ; đối thoại trong nhân dân, vì hết thảy chúng ta đều là dân tộc, sẵn sàng chia san và lãnh nhận, nhưng vẫn rộng mở với sự thật. Một quốc gia phát triển phồn thịnh khi cuộc đối thoại xây dựng diễn ra giữa nhiều cấu thành văn hóa phong phú của nó: văn hóa đại chúng, văn hóa đại học, văn hóa giới trẻ, văn hóa nghệ thuật, văn hóa kỹ thuật, văn hóa kinh tế, văn hóa gia đình và văn hóa truyền thông” [196].
200. Đối thoại thường bị lẫn lộn với điều gì đó khá khác biệt như: nóng nảy trao đổi ý kiến trên mạng xã hội, mà nó thường dựa trên thông tin truyền thông chẳng phải lúc nào cũng đáng tin cậy. Những cuộc trao đổi này chỉ đơn thuần là độc thoại song hành. Chúng có thể thu hút chú ý nào đó, nhờ giọng điệu gay gắt và hung hãn; nhưng các cuộc độc thoại chẳng lôi kéo được ai, cũng như nội dung của chúng thường mang tính tự phục vụ và mâu thuẫn.
201. Thật vậy, vô số sự kiện và ý kiến ồn ào của truyền thông thường cản trở đối thoại, vì nó cho phép mọi người ương ngạnh khư khư giữ ý tưởng, sở thích và lựa chọn riêng của họ, với lời bào chữa cho rằng hết thảy những ai khác đều sai lầm. Vì vậy, dễ dàng làm mất uy tín và nhục mạ đối thủ ngay từ đầu, hơn là mở ra cuộc đối thoại lịch thiệp, nhắm tới việc đạt được một thỏa thuận trên mức sâu sắc. Tệ hơn nữa, loại ngôn ngữ này thường được rút tỉa từ những bản tin truyền thông về các chiến dịch chính trị, đã trở nên lan tràn như thể một phần của câu chuyện thường nhật. Cuộc thảo luận thường bị thao túng bởi các nhóm đặc quyền đặc lợi đầy thế lực, họ tìm cách điều phối dư luận nghiêng về phía có lợi cho họ một cách bất công. Loại thao túng này không chỉ được các chính phủ thực hiện, mà cả trong kinh tế, chính trị, truyền thông, tôn giáo và nhiều lĩnh vực khác nữa. Nhiều nỗ lực được đưa ra nhằm biện minh hoặc bào chữa cho loại thao túng này, khi nó có xu hướng phục vụ quyền lợi kinh tế hay ý thức hệ của riêng họ, nhưng sớm muộn gì, nó cũng sẽ quay lưng chống lại chính những quyền lợi đó.
202. Thiếu đối thoại nghĩa là trong các lĩnh vực riêng lẻ này, người ta chẳng quan tâm đến thiện ích chung, mà chỉ để ý tới lợi ích quyền lực hoặc cùng lắm tìm cách áp đặt các ý nghĩ của riêng họ. Vì vậy, bàn tròn trở thành những phiên đàm phán đơn thuần, trong đó các cá nhân mưu toan nắm bắt mọi lợi thế có thể, thay vì hợp tác hầu theo đuổi thiện ích chung. Bậc anh hùng trong tương lai sẽ là những người có thể phá vỡ não trạng bệnh hoạn này và tôn trọng kiên quyết cổ vũ tính trung thực, vượt lên trên quyền lợi cá nhân. Nhờ thánh ý Chúa, những bậc anh hùng như thế đang âm thầm xuất hiện, ngay lúc này đây, ở giữa lòng xã hội chúng ta.
Cùng nhau dựng xây
203. Đối thoại xã hội chân chính liên quan đến khả năng tôn trọng quan điểm của tha nhân, cũng như thừa nhận rằng nó có thể bao hàm những xác tín và mối quan tâm hợp pháp. Dựa trên căn tính và kinh nghiệm của họ, người khác có gì đó đóng góp và mong muốn họ nên trình bày rõ ràng những lập trường của mình vì lợi ích cho cuộc tranh luận công khai hữu hiệu hơn. Khi các cá nhân hoặc nhóm nhất quán trong lối suy nghĩ, ra sức bảo vệ giá trị và niềm tin, cũng như khai triển lập luận của họ, thì chắc chắn điều này mang lại lợi ích cho xã hội. Tuy nhiên, nó chỉ có thể xảy ra theo mức độ khi tồn tại cuộc đối thoại chân chính và cởi mở với tha nhân mà thôi. Thật vậy, “trên tinh thần đối thoại đích thật, chúng ta trưởng thành trong khả năng nắm bắt tầm quan trọng của những gì mà người khác nói và làm, ngay cả khi chúng ta không thể chấp nhận nó như thể xác quyết của chính mình. Nhờ cách này, ta trở nên thẳng thắn và cởi mở đối với niềm tin chúng ta, trong khi vẫn tiếp tục thảo luận, tìm kiếm các điểm tiếp xúc, và trên hết, cùng làm việc và đấu tranh với nhau” [197]. Nếu thật sự tạo không gian cho mọi người và chẳng hề thao túng hoặc che giấu thông tin, thì thảo luận công khai là chất kích thích bất biến, ngõ hầu nắm bắt sự thật tốt hơn, hoặc ít nhất diễn đạt nó hữu hiệu hơn. Thảo luận công khai giữ cho các khu vực khác nhau tránh trở nên tự mãn và tự cho mình là trung tâm trong quan điểm, cũng như những mối quan tâm hạn chế của họ. Chúng ta đừng quên rằng “các dị biệt mang tính sáng tạo; chúng tạo ra căng thẳng và nhờ việc giải quyết căng thẳng, nhân loại mới tiến bộ” [198].
204. Một xác quyết ngày càng cho rằng cùng với các tiến bộ khoa học chuyên ngành, chúng ta cần đến truyền thông liên ngành lớn lao hơn. Mặc dù thực tại là một, nhưng có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ và phương pháp luận khác nhau. Một tiến bộ khoa học đơn nhất có nguy cơ được coi như lăng kính khả hữu duy nhất để xem xét khía cạnh đặc thù của cuộc sống, của xã hội và của thế giới. Tuy là chuyên gia trong lĩnh vực của họ, nhưng các nhà nghiên cứu cũng quen thuộc với những phát hiện khoa học và ngành học khác. Họ ở vị thế phân định các khía cạnh khác của đối tượng nghiên cứu, do đó họ trở nên cởi mở với tầm nhận thức toàn diện và trọn vẹn hơn về thực tại.
205. Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, “các phương tiện truyền thông có thể giúp chúng ta cảm thấy gần nhau hơn, tạo ra cảm thức hợp nhất của gia đình nhân loại, từ đó gợi hứng cho tình liên đới và sự nỗ lực nghiêm túc hầu đảm bảo cuộc sống xứng đáng hơn cho mọi người… Phương tiện truyền thông trợ giúp chúng ta rất nhiều trong việc này, đặc biệt ngày nay, khi các mạng lưới truyền thông của con người đã có những bước tiến vô tiền khoáng hậu. Cụ thể internet mang lại nhiều khả thể gặp gỡ và liên đới lớn lao vô cùng. Đây thật sự là điều tốt đẹp, một tặng phẩm của Thiên Chúa” [199]. Chúng ta cần liên tục bảo đảm để mọi hình thức truyền thông ngày nay trên thực tế hướng dẫn chúng ta gặp gỡ hài hoà với tha nhân, trung thực theo đuổi toàn bộ sự thật, sẵn sàng phục vụ, gần gũi với những ai kém may mắn và cổ vũ công ích. Như chư huynh Giám mục Úc đã chỉ ra, chúng ta không thể chấp nhận “một thế giới kỹ thuật số, mà nó được thiết kế nhằm khai thác nhược điểm của chúng ta và phơi bày những điều tồi tệ nhất nơi con người” [200].
Cơ sở của Tính đồng thuận
206. Thuyết tương đối chẳng phải là giải pháp. Dưới chiêu bài khoan dung, nói cho cùng, thuyết tương đối trao cho những kẻ nắm quyền cách biện giải các giá trị luân lý, chúng được định nghĩa theo ý thích của họ. “Trong trường hợp thiếu sự thật khách quan hoặc các nguyên tắc lành mạnh khác, hơn là tính thỏa mãn mong muốn riêng và vô số nhu cầu tức thời của mình…thì chúng ta không nên nghĩ rằng các nỗ lực chính trị hoặc sức mạnh pháp luật đã đầy đủ…Khi chính văn hóa bị băng hoại, và chân lý khách quan cũng như các nguyên tắc giá trị phổ quát không còn được duy trì, thì pháp luật chỉ có thể được xem như những áp đặt độc đoán hoặc trở ngại cần phải tránh” [201].
207. Liệu ta có thể quan tâm đến sự thật, tìm kiếm sự thật mà nó giải đáp ý nghĩa sâu xa nhất của cuộc sống không? Luật pháp là gì nếu không có niềm xác tín, phát sinh từ những suy tư lâu đời và túi khôn vĩ đại, cho rằng mỗi con người đều thánh thiêng và bất khả xâm phạm? Nếu muốn có một tương lai, xã hội phải tôn trọng sự thật về nhân phẩm của chúng ta và phục tùng sự thật đó. Hành vi sát hại là tồi tệ, không đơn giản vì bị xã hội phủ nhận và pháp luật trừng phạt, mà bởi lẽ do một niềm xác tín sâu thẳm hơn. Đây là sự thật bất khả thương lượng, nó chỉ đạt được bằng cách sử dụng lý trí và lương tâm để chấp nhận. Một xã hội sở dĩ cao quý, đứng đắn vì nó biết hỗ trợ việc theo đuổi chân lý và tuân thủ tính căn bản nhất của các chân lý.
208. Chúng ta cần học cách vạch trần vô số đường lối khác nhau mà vốn thao túng, bóp méo, che giấu sự thật trong diễn từ công khai và riêng tư. Điều chúng ta gọi là “sự thật” không chỉ tường thuật các sự kiện và biến cố như chúng ta thấy trên báo chí hằng ngày. Tiên vàn nên tìm kiếm những nền tảng vững chắc, vốn duy trì quyết định và luật lệ của chúng ta. Điều này đòi hỏi thừa nhận rằng tâm trí con người có khả năng vượt qua các mối quan tâm tức thời và nắm bắt một vài chân lý bất biến, đúng đắn cả bây giờ cũng như trong quá khứ. Khi nhìn sâu vào bản chất con người, lý trí khám phá ra những giá trị phổ quát, mà chúng bắt nguồn từ cùng một bản chất.
209. Nếu không, há chẳng thể nào quan niệm rằng nhân quyền căn bản mà ngày nay chúng ta vốn xem nó bất khả công kích sẽ bị những ai cầm quyền bác bỏ, một khi họ đạt được “sự đồng thuận” của bộ phận quần chúng thờ ơ hoặc bị đe dọa đó sao? Cũng vậy, sự đồng thuận đơn thuần giữa các quốc gia khác nhau, tự nó dễ bị thao túng, và không đủ sức bảo vệ họ. Có quá nhiều bằng chứng cho thấy chúng ta sở hữu vô vàn điều tốt đẹp, nhưng cũng phải thừa nhận tính phá hoại tiềm tàng trong chúng ta. Thái độ thờ ơ và chủ nghĩa cá nhân vô tâm mà chúng ta từng sa vào, cũng chẳng là kết cuộc của thói biếng nhác trong việc theo đuổi các giá trị cao quý hơn, những giá trị vượt trên nhu cầu tức thời của chúng ta hay sao? Thuyết tương đối luôn mang đến nguy cơ mà điều này hoặc điều nọ được viện dẫn là sự thật, nhưng sẽ bị những kẻ nắm quyền hoặc người khôn khéo áp đặt. Tuy nhiên, “khi nhắc tới các chuẩn mực luân lý ngăn cấm tội ác nội tại, thì chẳng có đặc quyền hay ngoại lệ nào dành cho bất cứ ai. Không gì khác biệt dẫu ai đó là chủ nhân của thế giới hay là người ‘nghèo nhất trong số những người nghèo’ trên mặt đất này. Trước các đòi hỏi đạo đức, hết thảy chúng ta đều tuyệt đối bình đẳng” [202].
210. Điều đang xảy ra hiện nay, lôi kéo chúng ta vào lối suy nghĩ đồi bại cằn cỗi, đó là việc giản lược đạo đức và chính trị thành vật lý học. Thiện lành và ác dữ không còn hiện hữu trong chính chúng nữa; chỉ còn phép giải tích lợi hại và nặng nhẹ. Do sự chuyển vị lý luận đạo đức, luật pháp chẳng còn được xem như phản ảnh ý niệm công lý căn bản nữa, mà chỉ phản chiếu các quan niệm đang thịnh hành. Dẫn tới sự suy sụp: tất cả đều bị “san bằng như nhau” bởi một đồng thuận đổi trác thiển cận. Sau cùng, luật của kẻ mạnh nhất thắng thế.
Đồng thuận và sự thật
211. Trong xã hội đa nguyên, đối thoại là cách tốt nhất để nhận ra điều phải luôn được quả quyết và được tôn trọng bên cạnh bất cứ sự đồng thuận phù phiếm nào. Cuộc đối thoại như vậy cần được nhân rộng và sáng tỏ nhờ tư tưởng anh minh, lập luận hợp lý, hàng loạt viễn ảnh cũng như sự góp phần của nhiều lĩnh vực tri thức và quan điểm khác nhau. Tương tự, nó không được loại trừ xác tín cho rằng có thể đạt được một số chân lý nền tảng nào đó luôn cần được đề cao. Dù chẳng phải lúc nào cũng dễ biện phân, nhưng thừa nhận sự hiện hữu của một số giá trị lâu dài mang lại nền đạo đức xã hội vững chắc và ổn định. Ngay cả khi các giá trị căn bản đó được thừa nhận và chấp nhận nhờ đối thoại và đồng thuận, thì chúng ta thấy chúng vẫn vượt hẳn bất cứ sự đồng thuận nào; chúng vượt trên các bối cảnh cụ thể của chúng ta và vẫn không thể thương lượng được. Có thể tầm hiểu biết của chúng ta về ý nghĩa cũng như phạm vi của chúng gia tăng – và theo phương diện này, thì sự đồng thuận là một thực tại năng động – nhưng tự thân chúng được giữ vững lâu dài nhờ vào ý nghĩa nội tại.
212. Nếu điều gì đó luôn phục vụ cho sự vận hành tốt đẹp của xã hội, há chẳng phải vì tồn tại một chân lý vĩnh viễn, vượt xa nó, mà trí tuệ có thể tiếp cận được hay sao? Nội tại nơi bản chất của con người và xã hội vốn hiện hữu những cơ cấu căn bản nào đó để hỗ trợ chúng ta phát triển và sinh tồn. Do đó, kéo theo một số yêu cầu và có lẽ chúng được phát hiện nhờ đối thoại, mặc dù nói chính xác hơn, chúng không được đồng thuận tạo ra. Thực tế các quy luật nào đấy cấp thiết đối với chính cuộc sống xã hội là dấu hiệu cho thấy chúng vốn tốt đẹp tự nó và trong nó. Vì vậy, chẳng cần phản kháng lợi ích xã hội, sự đồng thuận và thực tại của chân lý khách quan. Ba thực tại này có thể được hòa hợp bất cứ lúc nào, thông qua đối thoại, người dân không e ngại bước vào trọng tâm của một vấn đề.
213. Phẩm giá của tha nhân phải được tôn trọng trong mọi hoàn cảnh, chẳng phải vì phẩm giá ấy là thứ mà chúng ta đã sáng chế hay tưởng tượng ra, nhưng bởi lẽ con người sở hữu một giá trị nội tại vượt hẳn mọi giá trị của những đồ đạc vật chất và các tình huống ngẫu nhiên. Điều này đòi hỏi họ phải được đối xử khác khau. Mỗi hữu thể nhân vị đều sở hữu một phẩm giá bất khả chuyển nhượng, chính là chân lý tương ứng với bản chất con người, bất chấp mọi thay đổi văn hóa. Vì vậy, con người có cùng chung phẩm giá bất khả xâm phạm ở mọi thời đại lịch sử, và không một ai có thể tự cho mình là người được ủy quyền bởi những tình huống đặc thù nào mà phủ nhận xác tín này hoặc hành động chống lại nó. Người tài trí có thể tìm hiểu thực tại của sự vật qua suy tư, kinh nghiệm và đối thoại, rồi nhận ra trong thực tại đó mà vốn vượt hẳn nó, cơ sở đòi hỏi đạo đức phổ quát nào đấy.
214. Đối với những ai bất khả tri, nền tảng này có thể minh định đủ, hầu mang lại một giá trị phổ quát vững chắc và ổn định cho các nguyên tắc đạo đức căn bản bất khả thương lượng, mà ắt hẳn chúng giúp ngăn ngừa những thảm họa nghiêm trọng hơn. Là tín hữu, chúng ta tin chắc rằng bản chất con người vốn là nguồn gốc của các nguyên tắc đạo đức, được Thiên Chúa tạo dựng, và nói cho cùng, chính Người là Đấng trao ban nền tảng vững chắc cho những nguyên tắc trên [203]. Điều này không phát sinh tính cứng nhắc đạo đức, cũng không dẫn đến sự áp chế bất cứ hệ thống luân lý nào, vì chưng các nguyên tắc đạo đức có giá trị mang tính nền tảng và phổ quát có thể được hiện thân trong những quy tắc thực tiễn khác nhau. Do đó, chỗ dành cho đối thoại luôn luôn tồn tại.
MỘT NỀN VĂN HÓA MỚI
215. “Dù với mọi đương đầu, cuộc sống vẫn chính là nghệ thuật gặp gỡ” [204]. Tôi đã thường xuyên kêu gọi phát triển một nền văn hóa gặp gỡ, có khả năng vượt lên trên những khác biệt và chia rẽ của chúng ta. Tức là ra sức làm việc tạo ra khối đa diện gồm nhiều mặt khác nhau, biến thành một thể thống nhất sặc sỡ, mà trong đó “tổng thể lớn hơn từng phần” [205]. Hình ảnh khối đa diện có thể tượng trưng cho một xã hội mà nơi ấy tính khác biệt cùng hiện hữu, bổ sung, làm phong phú và soi toả lẫn nhau, ngay cả giữa những bất đồng hạn chế. Mỗi chúng ta đều có thể học được gì đó từ người khác. Chẳng ai vô dụng và làm vật hiến thân cả. Điều này cũng mang ý nghĩa tìm cách ôm trọn tất cả những ai đang ở vùng ngoại vi cuộc sống. Bởi lẽ họ nhìn sự việc theo thể thức khác; họ thấy các khía cạnh của thực tại vốn vô hình đối với hiện trạng tập trung quyền lực, nơi mà đưa ra những quyết định quan trọng.
Cuộc gặp gỡ trở thành văn hóa
216. Cụm từ “văn hóa” chỉ ra điều gì đó đã ghi sâu vào một dân tộc, các xác tín được ấp ủ bậc nhất cũng như lối sống của họ. Nền “văn hóa” của một dân tộc hơn cả ý niệm trừu tượng. Nó liên hệ đến lòng khát khao, thị hiếu và cuối cùng chính cách họ sống cuộc đời của mình. Nói đến nền “văn hóa gặp gỡ” nghĩa là như một dân tộc, chúng ta nên say mê với việc gặp gỡ tha nhân, tìm kiếm điểm tiếp xúc, xây dựng cầu nối, lập kế hoạch cho dự án không loại trừ một ai. Điều này trở thành niềm khát vọng và phong cách sống. Chủ thể của nền văn hóa này là nhân dân, chứ không đơn thuần chỉ là một phần xã hội, nhằm làm an tâm những ai còn lại với sự trợ giúp từ các nguồn lực chuyên môn và phương tiện truyền thông.
217. An bình xã hội đòi hỏi tính cần mẫn, lành nghề. Có lẽ sẽ dễ dàng hơn nếu chỉ kiểm soát các quyền tự do, điểm khác biệt bằng sự khôn khéo và một ít nguồn lực. Nhưng nền hòa bình như thế chắc hẳn hời hợt và mong manh, chứ không phải là thành quả của nền văn hóa gặp gỡ, nhằm mang lại sự ổn định lâu bền. Diễn trình hòa nhập vô số khác biệt rất ư khó khăn và chậm chạp hơn nhiều, nhưng nó bảo đảm an bình chân chính lâu dài. Nền hoà bình này không thể đạt được khi chỉ cậy nhờ vào những ai trong sạch và chẳng hoen ố, vì “ngay cả người có thể bị nghi vấn do lỗi lầm của họ cũng cống hiến gì đấy mà ta không được bỏ qua” [206]. Tương tự, nó không phát xuất từ thói phớt lờ các đòi hỏi của xã hội hoặc chế ngự xáo trộn nhiễu loạn, vì nó chẳng phải là “đồng thuận trên giấy tờ hay nền hòa bình nhất thời cho thành phần thiểu số toại nguyện” [207]. Điều quan trọng chính là tạo ra những tiến trình gặp gỡ, các diễn trình xây dựng một dân tộc biết chấp nhận khác biệt. Chúng ta hãy trang bị cho con cái mình bằng khí tài đối thoại! Chúng ta hãy dạy chúng đấu tranh cho cuộc chiến văn hóa gặp gỡ tốt đẹp!
Niềm vui khi công nhận tha nhân
218. Tất cả những điều trên đòi hỏi khả năng nhìn nhận quyền của tha nhân là khác biệt và thuộc về họ. Khi trở thành văn hóa, sự thừa nhận này có thể tạo ra một giao ước xã hội. Không có nó, vô số cách tinh vi có lẽ được phát hiện nhằm biến tha nhân thành vô nghĩa, không liên quan, vô giá trị đối với xã hội. Trong lúc bác bỏ một số hình thức bạo lực rõ rệt, thì chắc nhiều loại bạo hành khác xảo quyệt hơn bén rễ: bạo lực của kẻ coi thường những ai khác biệt, nhất là khi yêu cầu của họ làm tổn hại đến quyền lợi riêng của chính mình bằng bất cứ phương cách nào.
219. Khi một bộ phận xã hội khai thác tất cả những gì thế giới phải cung ứng, hành động như thể người nghèo không hiện hữu, thì kết cuộc sẽ lãnh hệ luỵ. Chẳng sớm thì muộn, thói phớt lờ tính hiện hữu và quyền lợi của tha nhân sẽ nổ ra dưới một số hình thức bạo lực thường ít ngờ nhất. Tự do, bình đẳng và tình huynh đệ có lẽ vẫn là lý tưởng cao cả, trừ phi chúng được áp dụng cho hết thảy mọi người. Cuộc gặp gỡ chẳng thể nào chỉ diễn ra giữa những người nắm giữ quyền lực kinh tế, chính trị hoặc học thuật; mà cuộc gặp gỡ xã hội chân chính đòi phải đối thoại dựa trên nền văn hóa được phần lớn dân chúng chia sẻ. Sự thể thường xảy ra là các thành phần nghèo hơn của xã hội chẳng chấp nhận những ý tưởng tốt đẹp, bởi vì chúng được trình bày trong bộ áo văn hóa không phải của họ và bất đồng nhất với nó. Chắc hẳn một giao ước xã hội thực tiễn bao trùm cũng là “giao ước văn hóa”, nó vốn tôn trọng và thừa nhận các thế giới quan, những nền văn hóa và lối sống khác nhau cùng đang tồn tại trong xã hội.
220. Chẳng hạn, các dân tộc bản địa không phản đối sự tiến bộ, nhưng quan niệm của họ về tiến bộ lại khác, nó thường mang tính nhân bản hơn so với nền văn hóa hiện đại nơi những dân tộc phát triển. Văn hóa của họ chẳng phải là nền văn hóa nhằm mang lại lợi ích cho những kẻ quyền lực, mà họ được thúc đẩy tạo ra cho chính mình một loại thiên đường ngay tại thế. Bất khoan dung và thiếu tôn trọng các nền văn hóa đại chúng bản địa là hình thức bạo lực dựa trên lối nhìn đầy phán xét, lạnh lùng. Chẳng thể nào biến đổi đích thật, sâu sắc và lâu dài được, trừ phi khởi sự từ các nền văn hóa khác nhau, đặc biệt những nền văn hóa của người nghèo. Giao ước văn hóa xa lánh lối hiểu nguyên khối về bản sắc của một nơi đặc thù; nó kéo theo lòng tôn trọng đối với tính đa dạng bằng cách cung ứng các cơ hội thăng tiến và hòa nhập xã hội cho tất cả mọi người.
221. Giao ước như thế cũng đòi hỏi nhận thức rằng một vài điều có thể bị bác bỏ vì công ích. Không ai sở hữu toàn bộ sự thật hoặc thỏa mãn mọi mong muốn của mình cả, bởi lẽ thói giả vờ này sẽ khiến triệt tiêu người khác bằng cách phủ nhận các quyền lợi của họ. Khái niệm sai lầm về lòng khoan dung phải nhường chỗ cho chủ trương hiện thực đối thoại về vai trò của những người đàn ông và phụ nữ vẫn trung thành với các nguyên tắc riêng, trong khi nhìn nhận tha nhân cũng có quyền tương tự. Đây là cách thừa nhận người khác đích thật, mà duy chỉ tình yêu mới làm cho khả hữu thôi. Chúng ta phải đặt mình vào vị trí của người khác, nếu muốn khám phá điều gì chân chính, hoặc ít nhất thông tri được trong các động cơ và mối quan tâm của họ.
PHỤC HỒI LÒNG NHÂN HẬU
222. Chủ nghĩa cá nhân tiêu thụ đã dẫn đến tình trạng bất công nghiêm trọng. Người khác bị xem đơn giản là vật trở ngại cho sự hiện hữu thanh bình của chúng ta; kết cuộc, chúng ta cư xử với họ như những kẻ khiến ta khó chịu, còn ta ngày càng trở nên hung hãn. Sự thể này chính xác hơn trong thời kỳ khủng hoảng, thảm họa và khổ cực, lúc chúng ta bị cám dỗ nghĩ suy theo ngạn ngữ cổ xưa, “thân ai nấy lo”. Tuy nhiên, ngay cả khi đó, chúng ta vẫn có thể lựa chọn nuôi dưỡng lòng tử tế mà. Như thế, những ai làm vậy sẽ trở nên những vì sao sáng giữa bóng đêm.
223. Thánh Phao-lô mô tả lòng nhân hậu như hoa quả của Chúa Thánh Thần (Gl 5, 22). Ngài sử dụng từ Hy Lạp chrestótes, diễn tả thái độ hòa nhã, vui vẻ và hỗ trợ, không vô lễ hay lỗ mãng. Những cá nhân có phẩm chất này thường giúp cuộc sống của người khác dễ chịu hơn, đặc biệt chia sẻ gánh nặng nan giải, nhu cầu và nỗi sợ hãi nơi họ. Cách đối xử này với tha nhân có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: hành động tử tế, sự quan tâm không xúc phạm bằng lời nói hoặc việc làm, sẵn sàng làm nhẹ bớt gánh nặng của họ. Hơn nữa, nó bao gồm hành vi “nói những lời khuyên giải, nâng đỡ, ủi an và khích lệ” chứ chẳng phải dùng “ngôn từ nhằm hạ thấp, gây buồn phiền, tức giận hoặc biểu lộ sự khinh miệt” [208].
224. Lòng nhân hậu giải thoát chúng ta khỏi sự bạo tàn, mà đôi khi nó tiêm nhiễm vào các mối liên hệ con người. Hơn nữa, lòng nhân hậu giải thoát chúng ta khỏi lo lắng vốn cản ngăn ta nghĩ đến tha nhân, khỏi những hoạt động điên cuồng đến nỗi quên rằng người khác cũng có quyền được hạnh phúc. Ngày nay, chúng ta thường không có thời gian lẫn năng lực để dừng lại và đối xử tử tế với tha nhân, để nói lời “xin lỗi”, “bỏ quá cho”, “cảm ơn”. Tuy nhiên, đôi lúc một người tốt bụng xuất hiện lạ lùng, sẵn sàng gạt hết mọi thứ khác, hầu biểu lộ sự quan tâm, trao tặng nụ cười, nói lời động viên, chú tâm lắng nghe, dù giữa bao nỗi thờ ơ nói chung. Nếu nỗ lực thực hiện điều này hằng ngày, chúng ta có thể tạo ra một bầu không khí xã hội lành mạnh, mà trong đó những hiểu lầm chắc được khắc phục và xung đột được ngăn chặn. Lòng tốt cần được vun trồng; nó chẳng phải là nhân đức tư sản hời hợt. Chính vì nó bao hàm sự quý mến và tôn trọng người khác, nên một khi lòng tốt trở thành nét văn hóa trong xã hội, nó sẽ biến đổi lối sống, các mối liên hệ và cách thức mà ý tưởng được thảo luận cũng như so sánh. Lòng tốt tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm sự đồng thuận; nó mở ra những nẻo đường mới, mà vốn dĩ nơi đó hành vi thù địch và xung đột hẳn đã thiêu huỷ mọi cầu nối.
CHƯƠNG VII
NHỮNG NẺO ĐƯỜNG GẶP GỠ CANH TÂN
225.Nhiều nơi trên thế giới đang trông chờ các nẻo đường hòa bình, hầu chữa lành các vết thương chưa lành. Cũng vậy, nhu cầu cần đến những ai kiến tạo hòa bình, đàn ông lẫn phụ nữ sẵn sàng hoạt động mạnh mẽ đầy sáng tạo, nhằm khởi xướng tiến trình hàn gắn và gặp gỡ đổi mới.
BẮT ĐẦU LẠI TỪ CHÂN LÝ
226. Gặp gỡ đổi mới không có nghĩa là quay trở lại thời điểm trước khi xảy ra xung đột. Hết thảy chúng ta đều thay đổi theo thời gian, nhưng đau đớn và tranh chấp biến đổi chúng ta. Chúng ta không còn dùng cách thức ngoại giao sáo rỗng, sự vờ vĩnh, kiểu nói nước đôi, các nghị trình bí ẩn và bộ dạng cư xử tốt đẹp nhằm che giấu thực tại nữa. Những kẻ thù ác liệt này cần cất lên tiếng nói từ sự thật một cách quả quyết và rõ ràng. Họ phải học cách trau dồi ký ức sám hối, mà nó có thể chấp nhận quá khứ, nhưng không để che khuất tương lai bằng những ân hận hối tiếc, vấn đề nan giải và kế hoạch của riêng họ. Chỉ bằng cách dựa trên sự thật lịch sử của các biến cố, họ mới có thể nỗ lực bền bĩ lớn lao để hiểu nhau, cũng như phấn đấu cho xu hướng tổng hợp mới vì lợi ích của mọi người. Mỗi “tiến trình hòa bình đòi hỏi cam kết lâu dài. Đây là nỗ lực kiên trì tìm kiếm sự thật và công lý, ngõ hầu tôn vinh ký ức của các nạn nhân và từng bước mở đường cho niềm hy vọng chung mạnh mẽ hơn ước vọng trả thù” [209]. Như chư huynh Giám mục Công-gô đã từng nói về một cuộc xung đột cứ tái diễn đi tái diễn lại: “Các thỏa ước hòa bình trên giấy sẽ không đủ. Chúng ta phải tiến xa hơn, bằng cách tôn trọng những đòi hỏi sự thật liên quan đến vô vàn cội rễ của cuộc khủng hoảng cứ tái diễn này. Người dân có quyền biết những gì đã xảy ra” [210].
227. “Trên thực tế, chân lý là bạn đồng hành bất khả phân ly của công lý và lòng thương xót. Cả ba đều thiết yếu, hầu kiến tạo hòa bình; hơn thế nữa, mỗi điều ngăn cản điều kia khỏi bị thay đổi…Chân lý không nên dẫn đến sự trả thù, mà đúng hơn phải dẫn tới sự hòa giải và tha thứ. Sự thật có nghĩa là nói cho các gia đình tan nát do xót xa trước những gì đã xảy ra với những người thân đã mất. Sự thật nghĩa là thú nhận điều đã diễn ra với các em tuổi thành niên bị kẻ tàn ác bạo lực chiêu trò tuyển mộ. Sự thật là nhận ra nỗi đau xót của giới phụ nữ vốn trở thành nạn nhân của tình trạng lạm dụng và bạo hành…Mọi hành động bạo lực vi phạm chống lại con người đều để lại vết thương hằn trên da thịt nhân loại; mỗi cái chết do bạo lực gây ra khiến chúng ta thu hẹp lại…Bạo lực kéo theo bạo lực trầm trọng hơn, hận thù sinh ra hận thù kinh hoàng hơn, giết hại dẫn đến sát hại nhiều hơn. Chúng ta phải phá vỡ vòng lẩn quẩn này, mà nó xem ra không thể thoát được” [211].
NGHỆ THUẬT VÀ KHOA KIẾN TRÚC HÒA BÌNH
228. Con đường dẫn tới hòa bình chẳng phải biến xã hội trở nên đồng dạng nhạt nhẽo, nhưng phải nối kết mọi người cộng tác với nhau, sát cánh bên nhau, theo đuổi những mục tiêu hữu ích cho tất cả. Hàng loạt đề xuất thực tiễn cũng như các kinh nghiệm đa dạng có thể hỗ trợ đạt được mục tiêu chung và phục vụ lợi ích chung. Những vấn đề mà xã hội đang trải qua cần được xác định rõ ràng, ngõ hầu đánh giá cao tính tồn tại của nhiều lối hiểu biết và cách giải quyết khác nhau. Nẻo đường dẫn đến sự hợp nhất xã hội luôn đòi hỏi phải thừa nhận khả năng của tha nhân, tối thiểu một phần, họ sở hữu quan điểm chính đáng, có gì đó đáng giá để góp phần, ngay cả khi họ mắc lỗi lầm hoặc hành động tồi tệ. “Chúng ta đừng bao giờ giam hãm người khác vào những gì có thể họ đã nói hoặc đã làm, nhưng hãy coi trọng họ vì lời hứa mà họ vốn là hiện thân” [212], một lời hứa luôn mang theo nó tia hy vọng tươi mới.
229. Các chư huynh Giám mục Nam Phi đã nhấn mạnh rằng sự hòa giải đích thực sẽ chủ động đạt được “bằng cách tạo ra xã hội mới, một xã hội dựa trên việc phục vụ tha nhân, hơn là mong muốn thống trị; một xã hội dựa trên tinh thần chia san với người khác những gì mình có, thay vì mỗi người cứ ích kỷ tranh giành, hầu tích trữ càng nhiều của cải càng tốt; nói cho cùng, một xã hội mà trong đó giá trị chung sống với nhau như những con người quan trọng hơn bất cứ bè nhóm nào, bất luận là gia đình, quốc gia, chủng tộc hay văn hóa” [213]. Như chư huynh Giám mục Hàn Quốc đã nêu ra, hòa bình chân chính “chỉ có thể đạt được khi chúng ta nỗ lực theo đuổi công lý qua đối thoại, theo đuổi sự hòa giải và cùng nhau phát triển” [214].
230. Việc chung tay vượt qua tình trạng chia rẽ của chúng ta mà không đánh mất bản sắc riêng như mỗi cá thể, giả định cảm thức căn bản thân thuộc này hiện diện nơi mọi người. Thật vậy, “xã hội được hưởng lợi khi mỗi người và nhóm xã hội cảm thấy thực sự như ở nhà. Trong gia đình, cha mẹ, ông bà và con cái đều cảm thấy thoải mái như ở nhà; không một ai bị loại trừ. Nếu ai đó có vấn đề, ngay cả vấn đề nghiêm trọng, thậm chí khi tự mình gánh vác chăng nữa, thì mọi thành viên còn lại trong gia đình sẵn sàng trợ giúp, nâng đỡ. Vấn đề của một người là vấn đề không của riêng ai…Trong gia đình, mọi người đều góp phần vào mục đích chung, đều ra sức làm việc vì thiện ích chung, chẳng hề phủ nhận, nhưng khuyến khích và động viên tính cá nhân của mỗi người. Họ có thể tranh cãi, nhưng mối dây liên kết gia đình không thay đổi, những tranh chấp gia đình luôn được giải quyết sau đó. Niềm vui và nỗi buồn của mỗi thành viên đều được mọi người cảm nhận. Đó chính là ý nghĩa của một gia đình! Ước chi chúng ta có thể nhìn các đối thủ chính trị hoặc hàng xóm láng giềng của mình theo cách chúng ta nhìn con cái hoặc người bạn đời, bố hoặc mẹ của mình! Điều này sẽ tốt biết bao! Chúng ta yêu mến xã hội của chúng ta hay nó vẫn còn xa vời, khuyết danh, chẳng liên can đến chúng ta, hay một điều gì đó mà chúng ta không hề cam kết dấn thân?” [215]
231. Thông thường, đàm phán trở nên thiết yếu, nhằm hình thành các nẻo đường cụ thể dẫn đến hòa bình. Tuy nhiên, trên hết tiến trình thay đổi đưa tới nền hòa bình lâu dài được các dân tộc tạo ra; mỗi cá nhân có thể hành động như men bột hữu hiệu bằng lối sống hằng ngày. Phía sau bàn làm việc hoặc trong các văn phòng, những thay đổi lớn lao không hề được tạo ra. Nghĩa là “mọi người đều giữ vai trò căn bản trong một đề án sáng tạo vĩ đại đơn nhất: viết nên trang sử mới tràn đầy niềm hy vọng, bình an và hòa giải” [216]. Một “khoa kiến trúc” hòa bình tồn tại, mà trong đó các định chế xã hội khác nhau góp phần tùy theo lĩnh vực chuyên môn, nhưng “nghệ thuật” hòa bình cũng hiện hữu, bao gồm mọi người chúng ta. Từ vô số tiến trình hòa bình đã từng diễn ra khắp nơi trên thế giới, “chúng ta học được những phương cách kiến tạo hòa bình, tiếp thu dạng thức đặt lý lẽ lên trên mối thù, cũng như đường lối sống hài hoà tinh tế giữa chính trị và luật pháp, chẳng thể nào bỏ qua sự tham gia của người dân. Hòa bình sẽ không đạt được bằng các khuôn khổ quy phạm và những sắp xếp mang tính định chế giữa nhiều nhóm chính trị hoặc kinh tế đầy thiện chí…Luôn thật sự hữu ích khi lồng vào các tiến trình hòa bình của chúng ta kinh nghiệm từ những lĩnh vực thường bị bỏ qua, ngõ hầu các cộng đồng tự mình có thể chi phối sự phát triển của ký ức tập thể” [217].
232. Việc xây dựng nền hòa bình toàn xã hội của một quốc gia chẳng có hồi kết; đúng hơn, đây là “nỗ lực luôn còn đó, một nhiệm vụ không bao giờ kết thúc, đòi hỏi sự dấn thân của mọi người và thách thức chúng ta làm việc liên lỉ nhằm kiến tạo tinh thần hợp nhất quốc gia. Bất chấp mọi trở ngại, khác biệt và vô số quan điểm về cách thức đạt được tính chung sống hòa bình, thì nhiệm vụ này mời gọi chúng ta kiên trì trong cuộc đấu tranh nhằm cổ vũ nền ‘văn hóa gặp gỡ’. Điều này yêu cầu chúng ta phải đặt con người ở vị thế trọng tâm của mọi sinh hoạt chính trị, xã hội và kinh tế, vì họ chính là chủ thể thụ hưởng phẩm giá cao cả nhất, cũng như đòi hỏi ta tôn trọng công ích. Ước gì lòng quyết tâm này giúp chúng ta thoát khỏi cám dỗ báo thù và thỏa mãn với các quyền lợi đảng phái ngắn hạn” [218]. Xét về mặt này hay mặt khác, những cuộc biểu tình bạo động công khai chẳng hỗ trợ tìm ra các giải pháp. Như chư huynh Giám mục Cô-lôm-bi-a lưu ý một cách đúng đắn, lí do chủ yếu bởi vì “nguồn gốc và mục tiêu của các cuộc biểu tình dân sự chẳng phải lúc nào cũng rõ ràng; một số hình thức thao túng chính trị nào đó tồn tại và chúng đã bị khai thác cho quyền lợi đảng phái trong vài trường hợp” [219].
Khởi đầu với người mọn hèn nhất
233. Xây dựng tình hữu nghị xã hội không chỉ kêu gọi các nhóm xích lại gần nhau, mà họ vốn đã đứng về phe phái khác trong giai đoạn lịch sử khó khăn nào đó, nhưng còn mời gọi gặp gỡ canh tân với những thành phần nghèo nàn và dễ bị tổn thương nhất của xã hội. Vì hòa bình “không đơn thuần là thiếu vắng chiến tranh, mà là một cam kết bền bỉ – đặc biệt về phía những ai trong chúng ta đang giữ trọng trách lớn lao hơn – trong việc nhìn nhận, bảo vệ và khôi phục một cách cụ thể phẩm giá của anh chị em chúng ta vốn thường bị bỏ qua hoặc làm ngơ, ngõ hầu họ có thể xem bản thân như các nhân vật chính yếu bênh vực vận mệnh quốc gia mình” [220].
234. Thông thường, những thành viên dễ bị tổn thương hơn trong xã hội là nạn nhân của hiện trạng quy chụp bất công. Nếu đôi khi người nghèo và những ai bị tước đoạt quyền sở hữu phản ứng với thái độ dường như chống báng xã hội, thì chúng ta nên nhận ra rằng trong nhiều trường hợp, các phản ứng đó ra đời từ nền lịch sử khinh miệt và loại trừ xã hội. Chư huynh Giám mục Nam Mỹ từng nhận xét rằng “chỉ sự gần gũi biến chúng ta thành bạn hữu mới có thể giúp ta đánh giá sâu sắc các giá trị của người nghèo ngày nay, những nguyện vọng chính đáng và cách sống đức tin của họ. Lựa chọn người nghèo sẽ dẫn chúng ta đến tình thân hữu với người nghèo” [221].
235. Những ai ra sức hoạt động cho tinh thần chung sống xã hội thanh bình đừng bao giờ quên rằng tính bất bình đẳng và thiếu hụt phát triển toàn diện của con người khiến hòa bình trở nên bất thành. Thật vậy, “nếu chẳng có cơ hội bình đẳng, các hình thức xâm lược và xung đột khác nhau sẽ tìm được mảnh đất màu mỡ để tăng trưởng, rồi sau cùng nổ tung tiêu tan. Khi một xã hội – bất kể là địa phương, quốc gia hay hoàn cầu – đều sẵn sàng bỏ mặc phần rìa của chính nó, thì chẳng có chương trình hoặc nguồn lực chính trị nào dành cho các hệ thống giám sát hoặc thực thi pháp luật có thể bảo đảm được sự thanh bình vô thời hạn” [222]. Nếu chúng ta phải bắt đầu lại, ắt hẳn luôn khởi sự từ những anh chị em bé mọn nhất của chúng ta.
GIÁ TRỊ VÀ Ý NGHĨA CỦA LÒNG VỊ THA
236. Nhiều người không thích nói về hòa giải, vì họ nghĩ rằng xung đột, bạo lực và đổ vỡ là một phần hoạt động bình thường của xã hội. Trong bất cứ nhóm người nào cũng luôn có những cuộc tranh giành quyền lực tinh vi ít nhiều giữa các đảng phái khác nhau. Ngoài ra, kẻ khác cho rằng cổ vũ sự tha thứ nghĩa là chuyển giao cơ sở và chi phối tha nhân. Vì lý do này, họ cảm thấy giữ nguyên trạng mọi điều, duy trì sự cân bằng quyền lực giữa các nhóm khác nhau tốt hơn. Tuy nhiên, nhiều người lại tin rằng hòa giải là dấu hiệu của sự yếu kém; không có khả năng đối thoại nghiêm túc thật sự, họ chọn tránh né các vấn đề bằng cách phớt lờ tình trạng bất công. Vì chẳng thể nào đối phó với những vấn đề nan giải, nên họ đành chọn loại hòa bình biểu kiến.
Xung đột bất khả kháng
237. Tha thứ và hòa giải là chủ đề trọng tâm của Ki-tô giáo và các tôn giáo khác qua nhiều dạng thức. Tuy nhiên, nguy cơ thiếu hiểu biết và trình bày không thỏa đáng những xác tín sâu sắc này có thể dẫn đến thuyết định mệnh, tính lãnh đạm và bất công, hoặc thậm chí sự ngoan cố và bạo lực.
238. Đức Giê-su chẳng bao giờ cổ súy nạn bạo lực hoặc sự bất khoan dung. Người công khai lên án việc sử dụng vũ lực để giành lấy quyền thế trên tha nhân: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì lấy quyền mà thống trị dân, những người làm lớn thì dùng uy mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy” (Mt 20, 25-26). Thay vào đó, Tin Mừng cho chúng ta biết phải tha thứ “bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 22) và đưa ra thí dụ tên đầy tớ bất nhân được tha thứ, nhưng lại không thể tha thứ cho người khác (x. Mt 18, 23-35).
239. Đọc các bản văn khác của Tân Ước, chúng ta có thể thấy những cộng đoàn Ki-tô hữu thời sơ khai đã tìm cách biểu lộ lòng nhẫn nại, khoan dung và thông hiểu vô hạn, mặc dù sống trong thế giới ngoại giáo đầy băng hoại và sai lầm tràn lan. Về phương diện này, một số bản văn rất rõ ràng: chúng ta phải lấy “lòng hiền hoà” mà khuyên nhủ những kẻ chống đối (2Tm 2, 25) và được khích lệ “đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người. Vì xưa kia, cả chúng ta nữa cũng đã từng ngu dại” (Tt 3, 2-3). Sách Tông Đồ Công Vụ ghi nhận: mặc dù bị một số nhà cầm quyền bắt bớ, nhưng các môn đệ “đã được toàn dân thương mến” (2, 47; x. 4, 21.33; 5, 13).
240. Tuy nhiên, khi chúng ta suy ngẫm về sự tha thứ, hòa bình và hòa hợp xã hội, chúng ta cũng bắt gặp câu nói gây choáng váng của Đức Ki-tô: “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa người ta với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10, 34-36). Những lời này cần được hiểu trong bối cảnh toàn chương mà đoạn văn được nêu, rõ ràng Đức Giê-su đang nói về lòng trung thành với quyết định bước theo chân Người; chúng ta chẳng hổ thẹn về quyết định đó, ngay cả khi nó kéo theo nhiều gian nan khốn khó khác nhau, thậm chí khi người thân chúng ta cũng từ chối chấp nhận nó. Lời lẽ của Đức Ki-tô không khuyến khích chúng ta tìm kiếm xung đột, nhưng đơn giản chỉ chịu đựng khi nó chắc chắn xảy đến, để sự tôn trọng con người không làm suy giảm lòng trung thành của chính chúng ta, vì lợi ích mang lại hòa bình đương nhiên phải có trong gia đình hoặc xã hội. Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã nhận định rằng Giáo hội “không có ý định lên án mọi hình thức xung đột xã hội có thể tồn tại. Giáo hội nhận thức rõ ràng trong dòng lịch sử, các xung đột quyền lợi giữa các nhóm xã hội khác nhau chắc chắn sẽ nảy sinh, và khi đối mặt với những xung đột đó, thông thường người Ki-tô hữu phải giữ vững lập trường một cách trung thực và dứt khoát” [223].
Xung đột chính đáng và sự tha thứ
241. Điểm trên đây không mang ý nghĩa kêu gọi tha thứ khi liên quan đến việc từ bỏ các quyền của chính bản thân, cũng như đối đầu với quan chức tham nhũng, tội phạm hoặc những ai tước đoạt nhân phẩm chúng ta. Chúng ta được mời gọi yêu thương mọi người, không trừ một ai; đồng thời, mến yêu kẻ áp bức không có nghĩa là để họ tiếp tục đàn áp chúng ta, hoặc cứ để họ nghĩ rằng những gì họ làm là chấp nhận được. Ngược lại, tình yêu chân chính đối với kẻ áp bức chính là tìm ra phương cách khiến họ chấm dứt đàn áp; hơn nữa, nó tước bỏ sức mạnh khỏi họ mà bản thân chẳng biết tận dụng, và làm giảm bớt nhân tính của mình và người khác. Sự tha thứ không hàm ý cho phép những kẻ áp bức tiếp tục chà đạp lên nhân phẩm của họ và của người khác, hoặc cứ để cho kẻ phạm tội ung dung với hành vi sai trái. Hết thảy những ai chịu cảnh bất công phải hết sức nỗ lực bảo vệ quyền lợi của mình và gia đình, chắc hẳn bởi vì họ giữ gìn phẩm giá như một hồng ân yêu thương mà Thiên Chúa ban tặng. Nếu như tội nhân gây hại cho tôi hoặc người thân, thì không ai có thể cấm tôi đòi hỏi công lý và bảo đảm rằng người này – hoặc bất cứ ai khác – sẽ không làm tổn thương tôi hoặc những người khác một lần nữa. Điều này hoàn toàn công bằng; việc thứ tha không ngăn cấm, nhưng thực sự lại đòi hỏi nó.
242. Hệ trọng hơn là đừng đổ thêm dầu vào lửa, mà nó vốn chẳng tốt lành cho linh hồn bản thân cũng như người khác, hoặc bị ám ảnh với việc trả thù và tiêu diệt tha nhân. Theo cách này, không ai đạt được bình an tâm hồn hoặc trở lại với cuộc sống bình thường cả. Sự thật rõ ràng rằng “chẳng một gia đình hay nhóm hàng xóm láng giềng nào, không nhóm sắc tộc nào, càng không thể quốc gia nào lại có tương lai nếu sức mạnh hợp nhất, nối kết và giải quyết mọi khác biệt giữa họ là báo oán và thù hận. Chúng ta không thể tiến đến thỏa thuận hợp nhất vì mục đích trả thù, hoặc đối xử bạo lực với người khác như họ đã cư xử với chúng ta, hoặc âm mưu tạo ra cơ hội trả đũa dưới sự bảo hộ biểu kiến của pháp luật” [224]. Theo cách này, ta chẳng thu được lợi lộc gì, và sau cùng, mọi thứ sẽ mất.
243. Chắc chắn rằng: “Vượt qua di sản cay đắng của bất công, thù nghịch và nghi kỵ do xung đột gây ra, không phải là trách vụ dễ dàng. Nó chỉ có thể thực hiện được nhờ chiến thắng cái ác bằng việc làm thiện hảo (x. Rm 12, 21) và nỗ lực trau dồi các nhân đức vốn phát huy hòa giải, liên đới và hòa bình” [225]. Như vậy, “những ai nuôi dưỡng lòng tốt trong tâm hồn sẽ nhận thấy điều tốt lành ấy dẫn đến một lương tâm bình an và niềm hoan lạc thâm sâu, ngay cả khi đang ở giữa ba đào nguy biến và bị hiểu lầm. Thậm chí lúc đương đầu, lòng tốt sẽ chẳng bao giờ yếu hèn, trái lại, nó biểu lộ sức mạnh bằng cách từ chối hành vi báo thù” [226]. Mỗi người trong chúng ta nên nhận ra rằng “ngay cả bản án khắc nghiệt mà tôi giữ trong lòng đối với anh trai hoặc em gái mình, thì vết thương đau xót sẽ chẳng bao giờ được chữa lành; hơn nữa, hành vi xúc phạm không bao giờ được tha thứ, sự hiềm thù sẽ chỉ làm tổn thương tôi, tất cả đều là những trường hợp của cuộc tranh đấu mà tôi phải mang trong mình, một ngọn lửa nhen nhúm tận sâu thẳm trái tim tôi cần được dập tắt trước khi nó biến thành ngọn lửa vút cao” [227].
Cách tiến bước tối ưu
244. Khi xung đột không được giải quyết mà bị giấu kín hoặc chôn vùi trong dĩ vãng, thì sự im lặng có thể dẫn đến tình trạng đồng lõa với những hành vi sai trái và tội lỗi nghiêm trọng. Hòa giải chân chính chẳng phải trốn chạy khỏi xung đột, mà đạt được trong xung đột, giải quyết nhờ đối thoại và thương lượng cởi mở, trung thực, kiên trì. Xung đột giữa các nhóm khác biệt “nếu từ khước thù hằn và lòng căm ghét lẫn nhau, nó sẽ dần dần chuyển thành cuộc thảo luận trung thực về những dị biệt dựa trên khát vọng công lý” [228].
245. Trong nhiều dịp, tôi đã nói về “một nguyên tắc không thể thiếu để xây dựng tình hữu nghị xã hội, đó là: hợp nhất thì cao quý hơn xung đột…Nhưng điều này không hẳn lựa chọn hình thái chủ nghĩa chiết trung, hoặc bắt người này hòa lẫn vào kẻ khác, nhưng đúng hơn là chọn lựa giải pháp trên bình diện cao hơn, cũng như duy trì những gì hợp lệ và hữu ích cho cả hai bên” [229]. Tất cả chúng ta đều biết rằng “khi chúng ta trong tư cách cá nhân và cộng đồng học cách nhìn xa hơn bản thân cũng như vượt trên những quyền lợi đặc thù của chúng ta, thì sự thông tri và cam kết hỗ tương sẽ đơm hoa kết trái…nơi bối cảnh mà trong đó xung đột, căng thẳng và thậm chí các nhóm từng bị coi là thù nghịch có thể đạt được sự hợp nhất đa diện vốn làm nảy sinh sức sống mới [230].
KÝ ỨC
246. Đối với những ai đã phải chịu quá nhiều đau khổ bất công và bạo tàn, thì không nên đòi hỏi kiểu “tha thứ mang hơi hướng xã hội”. Hòa giải là hành vi cá vị, và chẳng ai có thể áp đặt nó lên toàn bộ xã hội, cho dù nhu cầu cổ vũ nó lớn lao đến đâu. Trên phương diện hoàn toàn cá vị, một ai đó với quyết định tự do và quảng đại, có thể lựa chọn không đòi buộc trừng phạt (x. Mt 5, 44-46), ngay cả nếu xã hội và hệ thống công lý của nó đòi hỏi hợp pháp. Tuy nhiên, chẳng thể nào tuyên bố “loại hòa giải bao trùm” trong nỗ lực băng bó vết thương bằng cách đưa ra sắc lệnh hoặc dùng tấm áo choàng lãng quên che đậy những bất công. Ai có thể nhân danh người khác thỉnh cầu tha thứ chứ? Thật cảm động khi nhìn thấy nhiều người có thể bỏ qua tổn hại mà họ chịu đựng để tha thứ, nhưng về mặt nhân vị cũng dễ hiểu trong trường hợp họ không thể thứ tha. Dù sao đi nữa, không nhớ đến hoặc bỏ qua chẳng bao giờ là lời giải đáp cả.
247. Không được lãng quên Nạn Diệt chủng Do Thái (Shoah). Nó là “biểu tượng vĩnh viễn của những vực thẳm mà tội ác con người có thể sa xuống khi bị các ý thức hệ sai lạc xô đẩy, nó không nhận ra phẩm giá căn bản của mỗi con người, một điều đáng được tôn trọng vô điều kiện, bất luận nguồn gốc sắc tộc hay niềm tin tôn giáo nào” [231]. Khi nghĩ suy về điều này, tôi không thể không lặp lại lời nguyện cầu: “Lạy Chúa, xin nhớ đến chúng con theo lòng thương xót của Người. Xin rộng ban ơn thiên giúp chúng con biết hổ thẹn về những gì mà loài người chúng con gây ra, biết hổ thẹn vì đã sùng bái ngẫu tượng tràn làn, đã khinh chê và hủy hoại thân xác bản thân mà Người tác tạo từ bụi đất, rồi ban sự sống bằng chính hơi thở sự sống của Người. Đừng để tái diễn lần nào nữa, Chúa ơi, xin đừng để tái diễn bao giờ nữa!” [232].
248. Chúng ta cũng không được quên biến cố Hi-rô-shi-ma và Na-ga-sa-ki bị dội bom nguyên tử. Một lần nữa, “Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng đối với tất cả các nạn nhân, cũng như cúi đầu trước sức mạnh và phẩm giá của những người đã sống sót vào thời khắc đầu tiên ấy, rồi nhiều năm sau đó, đã mang trong thân xác mình nỗi đau tột cùng, và bên trong tinh thần họ, những hạt giống sự chết vốn đã rút cạn dần sinh lực nơi họ…Chúng ta không thể nào cho phép các thế hệ hiện tại và tương lai đánh mất ký ức về những gì đã xảy ra. Một ký ức bảo đảm và khích lệ kiến tạo tương lai công bằng và huynh đệ hơn” [233]. Chúng ta cũng không được quên những cuộc bách hại, buôn bán nô lệ, tàn sát sắc tộc vẫn tiếp diễn ở vô số quốc gia, và nhiều biến cố lịch sử khác khiến chúng ta hổ thẹn về nhân tính của mình. Chúng cần được ghi nhớ, luôn luôn và mãi mãi mới mẻ. Chắc hẳn chúng ta sẽ chẳng bao giờ trở nên quá quen thuộc hoặc nhàm chán với chúng.
249. Ngày nay, chúng ta dễ bị cám dỗ muốn lật sang trang mới, cho rằng tất cả những điều này đã xảy ra từ lâu và chúng ta nên nhìn về tương lai. Ôi, vì Chúa, đừng làm vậy! Chúng ta không bao giờ có thể tiến bước nếu lãng quên quá khứ; chúng ta chẳng thể nào tiến bộ nếu đánh mất ký ức trung thực và thanh thản. Chúng ta cần “giữ cho ngọn lửa lương tâm tập thể sống động, làm nhân chứng giúp các thế hệ kế thừa nhận biết nỗi kinh hoàng của những gì đã xảy ra”, vì hành động chứng tá này “đánh thức và duy trì ký ức của những nạn nhân, ngõ hầu lương tâm nhân loại được trổi dậy khi đối diện với mọi khao khát thống trị và hủy diệt ” [234]. Chính các nạn nhân – cá nhân, nhóm xã hội hay quốc gia – cần phải làm như vậy, kẻo bị sa vào não trạng dẫn tới hành vi biện minh cho sự trả đũa và mọi thứ bạo lực nhân danh cái ác ghê tởm mà họ phải chịu đựng. Vì vậy, tôi thiết nghĩ không chỉ cần ghi nhớ hành động bạo tàn, mà còn nhớ đến tất cả mọi người dù phải sống giữa hiện trạng vô nhân đạo và đồi trụy khủng khiếp, nhưng họ vẫn giữ được nhân phẩm, đã chọn về phía tình liên đới, tha thứ và đệ huynh bằng những cử chỉ dù nhỏ bé hay lớn lao. Ghi nhớ lòng nhân hậu cũng là điều tốt lành.
Tha thứ nhưng không lãng quên
250. Thứ tha không có nghĩa bỏ qua; hoặc đúng hơn, khi đối diện với thực tại bất khả phủ nhận, tương đối hóa hay che giấu, ta vẫn có thể tha thứ. Khi đối mặt với hành động không bao giờ được dung thứ, biện minh hay bào chữa, thì chúng ta vẫn có thể tha thứ. Lúc đối diện với điều gì đó mà chẳng thể quên vì bất kỳ lý do nào, ta vẫn có thể tha thứ. Tha thứ chân thành và tự do rất ư cao đẹp, nó phản chiếu đặc tính hữu năng tha thứ vô biên của Thiên Chúa. Nếu lòng vị tha nhưng không, thì nó có lẽ được biểu lộ ngay cả với những ai cưỡng lại việc ăn năn hối cải và chẳng thể nào nài xin thứ tha.
251. Người thật lòng tha thứ vẫn không lãng quên. Thay vào đó, họ chẳng chịu nhượng bộ trước sức mạnh hủy diệt đã từng gây ra biết bao đau khổ khốn cùng. Họ phá vỡ cái vòng luẩn quẩn, ngăn chặn bước tiến của các thế lực hủy diệt. Họ nhất định không loan truyền tinh thần trả thù trong xã hội, một tinh thần sớm muộn gì cũng sẽ trở lại đòi trả giá. Thực sự, hành vi báo thù chẳng bao giờ khiến nạn nhân hả dạ cả. Một vài tội ác khủng khiếp và tàn nhẫn đến nỗi hình phạt cho những kẻ phạm phải, không thể nào dùng để sửa chữa tổn hại đã gây ra. Ngay cả kết liễu tội nhân cũng chưa đủ, và bất cứ hình thức tra tấn nào cũng chẳng thể nào chứng minh tương xứng với những khổ đau đã trót gây ra cho nạn nhân. Trả thù không giải quyết được gì.
252. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là miễn trừng phạt. Công lý được tìm kiếm thích đáng chỉ vì tình yêu công lý, vì tôn trọng nạn nhân, như một phương thế ngăn ngừa tội ác mới và bảo vệ ích lợi chung, chứ chẳng phải trở thành lối thoát cho cơn tức giận cá nhân. Tha thứ chính là hành động trợ giúp chúng ta theo đuổi công lý, mà không bị rơi vào vòng xoáy của oán hận báo thù hay nạn bất công lãng quên.
253. Khi bất công xảy ra cho cả hai bên, thì điều quan trọng cần phải xem xét rõ ràng là chúng trầm trọng như nhau hay có thể so sánh bằng bất cứ phương cách nào hay không. Bạo lực do nhà nước sử dụng các cơ cấu và quyền lực của mình tạo ra không cùng tầm mức với bạo lực mà bè nhóm đặc thù gây ra. Dù sao chăng nữa, người ta cũng không thể tưởng niệm nỗi tan thương bất công của một bên được. Chư huynh Giám mục Croa-ti-a đã tuyên bố rằng: “chúng ta chịu ơn kính nhớ mọi nạn nhân vô tội như nhau. Không thể có sự khác biệt về chủng tộc, quốc gia, tuyên tín hoặc đảng phái” [235].
254. Tôi cầu xin Thiên Chúa “chuẩn bị tâm hồn chúng ta để gặp gỡ anh chị em của mình, ngõ hầu chúng ta có thể vượt qua các dị biệt bắt nguồn từ tư duy chính trị, ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo. Chúng ta hãy cầu xin Người thánh hoá toàn bộ con người chúng ta bằng dầu xót thương của Người, dầu thánh vốn chữa lành mọi bất công do sai lạc, hiểu lầm và tranh chấp gây ra. Hơn nữa, chúng ta xin Người ban ơn sai đi, hầu chúng ta tiến bước trong khiêm nhường và hiền lành, trên nẻo đường tìm kiếm hòa bình với biết bao đòi hỏi thử thách, nhưng khiến chúng ta trở nên phong phú dường bao” [236].
CHIẾN TRANH VÀ ÁN TỬ HÌNH
255. Hai tình huống cực đoan đôi khi được xem như giải pháp trong những hoàn cảnh đặc biệt bi thảm, mà người ta không nhận ra đó là giải đáp sai lầm, chẳng hề giải quyết được vấn đề nào vốn để tháo gỡ và sau cùng không thể làm gì khác hơn ngoài việc du nhập các yếu tố mới huỷ hoại kết cấu xã hội quốc gia cũng như hoàn cầu. Và đó chính là chiến tranh và án tử hình.
Sự bất công của chiến tranh
256. “Lòng kẻ mưu điều ác chất đầy chuyện lừa đảo, người cổ vũ hoà bình được chan chứa niềm vui” (Cn 12, 20). Tuy nhiên, lại có những người tìm kiếm giải pháp trong chiến tranh, mà nó thường xuyên bị thêm dầu vào lửa do mối liên hệ đổ vỡ, tham vọng bá quyền, lạm dụng quyền lực, sợ hãi người khác và có xu hướng coi tính đa dạng là trở ngại [237]. Chiến tranh không phải bóng ma từ dĩ vãng, mà là mối đe dọa thường trực. Thế giới chúng ta đang đối mặt với những khó khăn ngày càng gia tăng trên con đường tiệm tiến dẫn tới hòa bình, mà nó đã khởi diễn và bắt đầu đơm hoa kết trái tốt đẹp.
257. Vì các điều kiện hậu thuẫn cho chiến tranh nổ ra lại gia tăng, nên tôi chỉ có thể nhắc lại rằng “chiến tranh phủ nhận mọi quyền lợi và là cuộc tấn công bi đát vào môi trường. Nếu chúng ta mong muốn phát triển con người toàn diện đích thực cho hết thảy mọi người, chúng ta phải ra sức làm việc liên lỉ, hầu tránh chinh chiến giữa các quốc gia và dân tộc. Để đạt được mục tiêu này, cần phải bảo đảm nguyên tắc thượng tôn pháp luật và bền bỉ sử dụng phương cách thương lượng, hòa giải và trọng tài, như đã được Hiến chương Liên hiệp quốc đề xướng, mà nó thực sự trở thành quy phạm pháp chế nền tảng” [238]. Bảy mươi lăm năm kể từ khi Liên hiệp quốc được thành lập và kinh nghiệm hai mươi năm đầu tiên của thiên niên kỷ này đã lột tả việc áp dụng đầy đủ các quy phạm quốc tế thực sự hiệu quả, còn không tuân thủ những quy tắc đó lại gây ra tai hại. Hiến chương Liên hiệp quốc là điểm tham chiếu công lý bắt buộc, cũng như khí cụ hòa bình, khi nó được tuân thủ và áp dụng một cách minh bạch và chân chính. Ở đây không có chỗ cho việc ngụy tạo những ý định sai trái hoặc đặt quyền lợi đảng phái của một quốc gia hoặc bè nhóm lên trên thiện ích chung hoàn cầu. Nếu bộ quy tắc chỉ được đánh giá như các phương tiện dùng bất kỳ lúc nào để tỏ ra lợi thế, và bị bỏ qua khi bất lợi, thì những thế lực bất trị sẽ xổ lồng gây tổn hại nghiêm trọng cho xã hội, cho người nghèo và người dễ bị tổn thương, cho các mối tương quan huynh đệ, cho môi trường và di sản văn hóa, với biết bao mất mát không thể phục hồi lại cho cộng đồng toàn cầu.
258. Chiến tranh có lẽ dễ dàng được lựa chọn bằng việc viện dẫn mọi lý do mang tính nhân đạo, phòng thủ hoặc đề phòng, và thậm chí còn dùng tình thế thao túng thông tin. Trong những thập niên gần đây, mọi cuộc chiến tranh đơn nhất đều có vẻ “chính đáng”. Sách Giáo lý Giáo Hội Công Giáo trình bày về tính khả thể phòng vệ chính đáng bằng sức mạnh quân sự, bao gồm lối chứng minh cho một số “điều kiện nghiêm ngặt của tính hợp pháp về mặt luân lý” [239] đã được đáp ứng. Tuy nhiên, rất dễ rơi vào cách biện giải quá rộng về quyền tiềm năng này. Như vậy, một số người cũng có thể biện minh sai lầm cả những cuộc tấn công “phòng ngự” hoặc các hoạt động chiến tranh khó tránh khỏi việc kéo theo “vô số tội ác và hỗn loạn tệ hại hơn cả tội ác cần được loại bỏ” [240]. Vấn đề là từ ngày phát triển các loại vũ khí hạt nhân, hóa học và sinh học, cũng như những khả thể to lớn và ngày càng gia tăng nhờ vào khoa học kỹ thuật tân tiến, đã có thêm một sức mạnh hủy diệt gây ra chiến tranh mà không ai kiểm soát nổi, đang tác oai tác quái lên vô số dân thường vô tội. Quả thật, “nhân loại chưa bao giờ sở hữu sức mạnh như vậy trên chính mình, nhưng cũng chẳng có gì bảo đảm họ sẽ sử dụng nó một cách khôn ngoan” [241]. Do đó, chúng ta sẽ không còn nghĩ suy về chiến tranh như một giải pháp nữa, vì chưng rủi ro của nó có lẽ luôn lớn hơn những lợi ích giả định mà người ta vốn gán cho nó. Ngày nay, khi đứng trước thực tại này, rất khó bênh vực các tiêu chuẩn hợp lý, từng được soạn thảo công phu vào hàng thế kỷ trước kia, để trình bày về một cuộc “chiến tranh chính nghĩa” có thể diễn ra. Ước gì lửa binh chiến chinh chẳng bao giờ lặp lại nữa! [242].
259. Cần phải nói thêm rằng, với tình trạng toàn cầu hoá gia tăng, điều xem ra như giải pháp tức thì hoặc thiết thực cho một phần của thế giới sẽ khởi diễn chuỗi mắc xích các hậu quả bạo lực và thường tiềm ẩn, kết cuộc gây tác hại cho toàn bộ hành tinh, và mở đường cho những cuộc chiến tranh mới tồi tệ hơn trong tương lai. Trong thế giới ngày nay, không còn đơn thuần nổ ra chiến tranh đơn lẻ tại quốc gia này hay ở quốc gia nọ, mà chúng ta đang trải qua một "cuộc chiến tranh thế giới từng phần", bởi lẽ vận mệnh các quốc gia được liên kết chặt chẽ với nhau trên khung cảnh hoàn cầu.
260. Theo lời Thánh Giáo hoàng Gio-an XXIII, “chủ trương cho rằng chiến tranh là công cụ thích đáng để sửa chữa sai phạm công bình là điều không còn ý nghĩa gì nữa” [243]. Khi đưa ra quan điểm này giữa bối cảnh căng thẳng quốc tế lớn lao, ngài đã nói lên khát vọng hòa bình ngày càng gia tăng trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Ngài ủng hộ xác quyết cho rằng các lập luận hậu thuẫn hòa bình mạnh mẽ hơn bất cứ toan tính nào về quyền lợi đặc thù và niềm tin nào vào việc sử dụng vũ khí. Tuy nhiên, chẳng có cơ hội nào được nắm bắt vào cuối thời kỳ Chiến tranh Lạnh, vì lẽ thiếu viễn kiến cho tương lai và ý thức dự phần về vận mệnh chung của chúng ta. Thay vào đó, việc theo đuổi quyền lợi đảng phái mà không đề cao thiện ích phổ quát lại là điều dễ dàng hơn nhiều. Do đó, bóng ma chiến tranh hãi hùng đã bắt đầu đạt được nền tảng mới.
261. Mọi cuộc chiến đều khiến thế giới chúng ta trở nên tồi tệ hơn trước. Chiến tranh là sự thất bại của nền chính trị và của nhân loại, một thoả ước đầu hàng đáng xấu hổ, cuộc bại trận nhức nhối trước các thế lực xấu xa. Chúng ta đừng sa vào vũng lầy của các cuộc thảo luận lý thuyết, nhưng hãy chạm vào xác thịt tan thương của nạn nhân. Một lần nữa, chúng ta hãy nhìn vào những vụ giết hại thường dân được coi như “thiệt hại phụ”. Chúng ta hãy hỏi chính các nạn nhân. Chúng ta cùng nghĩ tới người tị nạn và di tản, những ai chịu hậu quả của phóng xạ nguyên tử hoặc các cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học, những người mẹ mất con, những cậu bé và cô bé bị tàn tật hoặc bị tước mất tuổi thơ. Chúng ta hãy nghe các câu chuyện thật về những nạn nhân bị bạo hành này, hãy nhìn vào thực tại với nhãn quan của họ và chú tâm lắng nghe những câu chuyện họ kể với cả con tim rộng mở. Bằng cách này, chúng ta mới có thể nắm bắt được vực thẳm tàn ác ngay tại trọng điểm chiến tranh. Vả lại, chúng ta cũng sẽ không bối rối khi bị coi là ngây ngô vì lựa chọn hòa bình.
262. Các quy tắc tự nó sẽ chẳng đầy đủ, nếu chúng ta tiếp tục nghĩ rằng giải pháp cho những vấn đề hiện tại là dùng nỗi sợ hãi răn đe hoặc đe dọa bằng vũ khí hạt nhân, hóa học hoặc sinh học. Thật vậy, “nếu chúng ta xem xét các mối đe dọa chính yếu đối với hòa bình và an ninh dưới nhiều phương diện trong thế giới đa cực của thế kỷ XXI này, chẳng hạn như: chủ nghĩa khủng bố, xung đột bất đối xứng, an ninh mạng, vấn đề môi trường, nghèo đói, thì không ít nghi ngờ sẽ nảy sinh, liên quan đến sự bất cập của khả năng răn đe hạt nhân như lời đáp trả hữu hiệu cho các thách thức ấy. Lo ngại này càng lớn hơn khi chúng ta xem xét những hậu quả thảm khốc về nhân đạo và môi trường sẽ xảy ra ngay sau việc sử dụng bất kỳ vũ khí hạt nhân nào, với các hệ quả tàn phá, bừa bãi, bất khả kiểm soát theo dòng thời gian và trong không gian…Chúng ta cũng cần tự hỏi mình: tính ổn định dựa trên nỗi sợ hãi sẽ bền vững ra sao, khi nó thực sự gia tăng kinh hãi và đục khoét mối liên hệ tin cậy giữa các dân tộc. Hòa bình và ổn định quốc tế không thể dựa trên cảm thức an toàn giả tạo, hay dựa trên mối đe dọa triệt hạ lẫn nhau hoặc huỷ diệt hoàn toàn, hoặc đơn giản chỉ duy trì cân bằng quyền lực…Trong bối cảnh này, mục tiêu cuối cùng của việc loại bỏ hoàn toàn vũ khí hạt nhân trở thành một thách thức và mệnh lệnh luân lý cũng như nhân đạo…Sự phụ thuộc lẫn nhau và tình trạng toàn cầu hóa ngày càng gia tăng có nghĩa là bất cứ giải đáp nào cho mối đe dọa vũ khí hạt nhân đều phải mang tính tập thể, phối hợp, dựa trên lòng tin cậy lẫn nhau. Niềm tin tưởng này chỉ có thể được xây dựng nhờ vào cuộc đối thoại thực sự hướng tới lợi ích chung, chứ không nhằm bảo vệ ích lợi ẩn tàn hoặc đặc thù” [244]. Với kinh phí cho vũ khí và các chi tiêu quân sự khác, thay vào đó, chúng ta hãy thành lập một quỹ hoàn cầu [245], nhằm sau cùng có thể chấm dứt nạn đói và tạo điều kiện cho các nước nghèo nhất phát triển, ngõ hầu công dân của họ sẽ không dùng đến những giải pháp bạo lực hoặc viển vông, hay phải rời khỏi quê hương để tìm kiếm cuộc sống xứng đáng hơn.
Án tử hình
263. Có một cách khác để loại bỏ tha nhân, nó không nhắm vào các quốc gia, nhưng nhắm tới những cá nhân. Đó chính là án tử hình. Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã tuyên bố rõ ràng và xác quyết rằng hình phạt tử hình không phù hợp với quan điểm luân lý và xét trên bình diện công lý hình sự, nó chẳng còn cần thiết nữa [246]. Nhưng oái ăm thay, chúng ta không thể lùi bước, thoát khỏi chủ trương này. Ngày nay chúng ta khẳng định rõ ràng rằng “án tử hình không được chấp nhận” [247] và Giáo hội kiên quyết dấn thân kêu gọi bãi bỏ hình phạt này trên toàn thế giới [248].
264. Theo sách Tân Ước, trong khi các cá nhân được yêu cầu không được tự mình đoạt lấy công lý (x. Rm 12, 17.19), thì cũng tồn tại thừa nhận nhu cầu cần đến thẩm quyền áp chế những hình phạt lên kẻ bất lương (x. Rm 13, 4; 1Pr 2, 14). Thật vậy, “đời sống dân sự được kiến tạo xoay quanh một cộng đồng quy cũ, cần đến các quy tắc sống chung, nếu cố ý vi phạm, buộc phải có biện pháp uốn nắn thích đáng” [249]. Nghĩa là thẩm quyền công hợp pháp có thể và phải “đưa ra án phạt tùy theo mức độ nghiêm trọng của tội phạm” [250], cũng như quyền tư pháp phải được bảo đảm “sự độc lập cần thiết trong lĩnh vực luật pháp” [251].
265. Từ những thế kỷ đầu tiên của Giáo hội, một số người đã kịch liệt phản đối án phạt tử hình. Thí dụ, Lac-tan-ti-ô cho rằng “không nên đưa ra trường hợp ngoại lệ nào cả; bởi lẽ sát hại một người luôn luôn bất hợp pháp” [252]. Đức Giáo hoàng Ni-cho-la I đã thúc giục thực hiện các nỗ lực “nhằm giải thoát khỏi án tử hình không chỉ cho mỗi cá nhân vô tội, mà cho toàn thể phạm nhân nữa" [253]. Trong phiên tòa xét xử những kẻ sát hại hai linh mục, Thánh Âu-gus-ti-nô đã yêu cầu thẩm phán không lấy mạng họ với lý lẽ này: “Chúng tôi chẳng phản đối việc quan toà tước quyền tự do của những kẻ xấu xa này nhằm ngăn họ phạm tội thêm. Mong muốn của chúng tôi là đừng lấy đi mạng sống họ và không làm họ thương tật bất cứ bộ phận nào trên cơ thể. Đồng thời, bằng các biện pháp cưỡng chế do luật pháp quy định, họ nên được cải hoá từ người giận dữ phi lý thành người thanh thản sở hữu tâm trí lành mạnh, và hoán cải từ hành vi xấu xa thành hành động hữu ích nào đó. Điều này cũng được xem như một bản kết án, nhưng đối với những ai không nhận ra khi bạo lực man rợ được kiềm hãm, và liệu pháp mang lại cho họ cơ hội hoán cải, thì nên coi đây như một ơn ích hơn là biện pháp trừng phạt đơn thuần…Đừng để tính hung bạo tội lỗi của họ nuôi dưỡng khát vọng trả thù, nhưng thay vào đó, ước muốn chữa lành vết thương mà chính hành vi của bản thân đã gây ra nỗi đau trong tâm hồn họ” [254].
266. Sợ hãi và phẫn nộ có lẽ dễ dàng dẫn đến cách nhìn hình phạt theo lối đầy dẫy báo thù và thậm chí tàn nhẫn, hơn là một phần của tiến trình chữa lành và tái hòa nhập vào xã hội. Ngày nay, “trong một số lĩnh vực chính trị và phương tiện truyền thông nào đó, bạo lực và trả thù chung cũng như cá nhân bị kích động, không chỉ chống lại những kẻ phạm tội phải chịu trách nhiệm, mà còn phản đối kẻ tình nghi vi phạm pháp luật, bất luận đã được chứng minh hay không…Đôi lúc tồn tại xu hướng cố tình bịa đặt ra kẻ thù: những nhân vật bị rập khuôn, đại diện cho mọi đặc điểm mà xã hội tri nhận hoặc được giải thích mang tính đe dọa. Các cơ chế tạo ra những hình ảnh này y hệt các cơ chế đã cho phép việc loan truyền vô số ý niệm phân biệt chủng tộc trong thời đại của họ” [255]. Điều này càng gây thêm nguy cơ cho việc thực hành ngày một gia tăng ở vài quốc gia vốn dùng đến biện pháp giam giữ ngăn ngừa, bỏ tù không xét xử và đặc biệt án tử hình.
267. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh: “không thể tưởng tượng được các quốc gia ngày nay chẳng có biện pháp nào khác ngoài hình phạt tử hình để bảo vệ cuộc sống của người dân khỏi những kẻ xâm lược bất chính”. Xét về phương diện này, đặc biệt nghiêm trọng nơi các vụ hành quyết được gọi là phi tư pháp hoặc phi pháp luật, nhưng thực chất là “những vụ sát hại cố ý, do một số quốc gia và đặc vụ của họ gây ra, thường được xem như các cuộc đụng độ với tội phạm, hoặc được giải trình chỉ là hậu quả sơ ý của việc vận dụng sức mạnh hợp lý, cần thiết và tương xứng khi áp dụng pháp luật ” [256].
268. “Các lập luận chống lại án tử hình vô kể và ai cũng biết tới. Giáo hội đã chính thức kêu gọi chú ý đến một số luận cứ này, chẳng hạn như khả thể sai sót tư pháp, việc sử dụng hình phạt như vậy do những chế độ độc tài toàn trị như phương tiện đàn áp bất đồng chính kiến hoặc đàn áp các nhóm thiểu số tôn giáo và văn hóa, tất cả đều là nạn nhân mà pháp luật của những chế độ đó xem như 'phạm pháp'. Hết thảy Ki-tô hữu và mọi người thiện chí ngày nay được kêu mời hành động không chỉ để xóa bỏ án tử hình dưới mọi hình thức, dù hợp pháp hay bất hợp pháp, mà còn cải thiện tình trạng nhà tù, dựa trên sự tôn trọng phẩm giá của những con người bị tước mất tự do. Ngoài ra, tôi muốn liên kết điều này với án tù chung thân…Bản án chung thân là án tử hình kín đáo” [257].
269. Chúng ta nên ghi nhớ rằng “ngay cả kẻ sát nhân cũng chẳng đánh mất phẩm giá của bản thân, và chính Thiên Chúa cam kết bảo đảm điều này” [258]. Hành động kiên quyết bác bỏ án tử hình cho thấy chúng ta có thể thừa nhận phẩm giá bất khả chuyển nhượng của mỗi con người và chấp nhận họ có một vị thế trong vũ trụ này. Nếu tôi không bác bỏ phẩm giá đó của kẻ tồi tệ nhất trong các phạm nhân, thì tôi sẽ chẳng chối từ phẩm giá của bất cứ ai. Tôi sẽ dành cho mọi người khả thể chia sẻ hành tinh này với tôi, bất luận mọi dị biệt của chúng ta.
270. Tôi thỉnh cầu các Ki-tô hữu còn do dự về điểm này và những ai bị cám dỗ muốn chiều theo bạo lực dưới bất cứ hình thức nào, hãy ghi nhớ những lời trong sách ngôn sứ I-sai-a: “Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày” (2, 4). Đối với chúng ta, lời tiên báo này đã được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su Ki-tô, Người quả quyết khi trông thấy một môn đệ bị cám dỗ dùng bạo lực: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm” (Mt 26, 52). Những lời này âm vang vọng lại lời cảnh báo cổ xưa: “Ta sẽ đòi mỗi người phải đền mạng sống của người anh em mình. Ai đổ máu con người, thì máu nó sẽ bị con người đổ ra” (St 9, 5-6). Phản ứng của Đức Giê-su phát xuất từ chính tâm hồn đã nối kết khoảng cách của nhiều thế kỷ, rồi tiếp đến thời hiện tại như một lời kêu gọi trường kỳ.
CHƯƠNG VIII:
CÁC TÔN GIÁO PHỤC VỤ TÌNH HUYNH ĐỆ TRONG THẾ GIỚI CHÚNG TA
271. Dựa trên nền tảng tôn trọng mỗi con người như một tạo vật được mời gọi làm con cái Thiên Chúa, các tôn giáo khác nhau đều góp phần đáng kể vào việc xây dựng tình huynh đệ và bảo vệ công lý trong xã hội. Đối thoại giữa những tín đồ tôn giáo khác biệt không diễn ra đơn giản chỉ vì mục đích ngoại giao, ân cần hay khoan dung. Theo lời của chư huynh Giám mục Ấn Độ, “mục tiêu của đối thoại chính là thiết lập tình hữu nghị, hòa bình và hòa hợp, cũng như chia sẻ các giá trị tâm linh và luân lý, với những cảm nghiệm trong tinh thần chân lý và tình yêu” [259].
NỀN TẢNG TỐI HẬU
272. Là tín hữu, chúng ta xác tín rằng, nếu không mở toan cõi lòng với Cha chung của mọi người, thì chẳng có lý do nào mà vững chắc và ổn định nhằm kêu gọi tình huynh đệ cả. Chúng ta quả quyết: “chỉ với ý thức này, chúng ta sẽ không mồ côi, nhưng là con cái, có thể sống hòa bình với nhau” [260]. Bởi lẽ “lý trí tự nó sở hữu khả năng nắm bắt sự bình đẳng giữa con người và mang lại tính ổn định cho việc chung sống dân sự, nhưng nó không thể thiết lập tình huynh đệ” [261].
273. Về phương diện này, tôi xin trích dẫn tuyên bố đáng nhớ sau đây: “Nếu như không có chân lý siêu việt, nhờ vâng phục chân lý đó, con người đạt tới căn tính trọn vẹn của mình, thì chẳng có một nguyên tắc nào chắc chắn có thể bảo đảm cho những tương quan đúng đắn giữa con người với nhau. Các lợi ích riêng tư của giai cấp, phe nhóm hoặc dân tộc khiến họ khó lòng tránh khỏi đối chọi với nhau. Nếu chân lý siêu việt không được nhìn nhận, thì sức mạnh của quyền bình sẽ làm bá chủ, và mỗi người đều có khuynh hướng tận dụng tối đa các phương tiện mình đang có, để áp đặt tư lợi hoặc ý kiến riêng, không hề quan tâm đến những quyền lợi của người khác…Gốc rễ của chủ nghĩa toàn trị hiện đại nằm ở thái độ chối bỏ phẩm giá siêu việt của ngôi vị con người, hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình, và vì thế, do chính bản tính của mình, con người là chủ thể những quyền mà không một ai, dù là cá nhân, đoàn thể, giai cấp, dân tộc hay nhà nước có thể xâm phạm. Ngay cả đa số trong một đoàn thể xã hội cũng không thể xâm phạm các quyền đó bằng cách chống lại thiểu số” [262].
274. Từ cảm nghiệm đức tin và sự khôn ngoan tích lũy qua nhiều thế kỷ, rồi cũng từ những bài học rút ra từ nhiều nhược điểm cũng như thất bại của mình, chúng ta, các tín nhân thuộc vô số tôn giáo khác biệt, biết rằng sống chứng tá cho Thiên Chúa mang ích lợi cho xã hội chúng ta. Nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa với tấm lòng chân thành, miễn là không bao giờ để các mục đích ý thức hệ hoặc tư lợi làm chúng ta nhụt chí, điều này giúp chúng ta nhìn nhận nhau như những người bạn đồng hành, là anh chị em thật sự. Chúng ta xác quyết rằng “khi nhân danh một ý thức hệ vốn toan tính loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi xã hội, thì kết cuộc xã hội đó sẽ tôn thờ ngẫu tượng, và chẳng bao lâu mọi người, nam hay nữ sẽ lạc lối, còn nhân phẩm của họ sẽ bị chà đạp và các quyền lợi của họ bị xâm phạm. Các bạn thấu tỏ người ta đã gây ra biết bao đau khổ do khước từ tự do lương tâm và tự do tôn giáo, hơn nữa, vết thương đó để lại một nhân loại nghèo hèn ra sao, bởi lẽ thiếu niềm hy vọng và lý tưởng dẫn đường” [263].
275. Cần phải nhìn nhận rằng “trong số những nguyên nhân trọng yếu nhất gây ra các cuộc khủng hoảng thế giới hiện đại, đó là lương tâm con người đã trở nên vô cảm, xa rời giá trị tôn giáo, còn chủ nghĩa cá nhân lan tràn kèm theo triết thuyết duy vật chuyên thần thánh hóa con người và du nhập các giá trị vật chất trần tục để thay thế những nguyên tắc tối cao, siêu việt” [264]. Thật là sai lầm khi tiếng nói duy nhất được nghe thấy trong cuộc tranh luận công khai chỉ là tiếng nói của những người quyền lực và “các chuyên gia”. Cần dành chỗ cho nhiều suy tư phát sinh từ vô số truyền thống tôn giáo, vốn là kho lưu trữ kinh nghiệm và khôn ngoan suốt hàng thế kỷ. Vì “các tác phẩm cổ điển tôn giáo có thể được minh chứng hết sức ý nghĩa trong mỗi thời đại; chúng có một sức mạnh bền bỉ [hầu mở ra những chân trời mới, kích thích tư tưởng, mở rộng tâm trí và con tim]”. Tuy nhiên, chúng thường bị xem thường, bị coi như là kết quả của “chủ nghĩa duy lý thiển cận nào đó” [265].
276. Vì những lý do trên, trong khi tôn trọng quyền tự trị của sinh hoạt chính trị, Giáo hội không hạn chế sứ mệnh của mình trong phạm vi riêng tư. Trái lại, “Giáo Hội không thể và không được đứng mãi bên lề” trong công cuộc kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn, hoặc chẳng “thức tỉnh năng lực tinh thần trở lại”, mà nó vốn góp phần xây dựng xã hội tươi đẹp hơn [266]. Đúng là tu sĩ nam nữ không được tham gia vào chính trị đảng phái, vì nó là lĩnh vực riêng của thành phần giáo dân, nhưng đừng từ bỏ chiều kích chính trị nơi cuộc sống [267], chiều kích liên quan đến việc lưu ý không ngừng tới công ích và quan tâm phát triển con người toàn diện. Giáo hội “có vai trò cộng đồng ngoài các hoạt động bác ái và giáo dục của mình”. Giáo hội ra sức làm việc cho “sự thăng tiến của nhân loại và tình huynh đệ phổ quát” [268]. Giáo hội không tự cho mình cạnh tranh với các quyền lực trần thế, nhưng lại tự hiến như “một gia đình giữa mọi gia đình, Giáo hội là thế, cởi mở trở nên chứng tá trong thế giới ngày nay, mở toan cõi lòng đặt đức tin – đức cậy – đức mến vào Thiên Chúa, và những ai mà Người yêu thương bằng tình mến ưu tiên. Một ngôi nhà với nhiều cánh cửa rộng mở. Giáo hội là ngôi nhà ấy, bởi lẽ Giáo hội vốn là người mẹ hiền” [269]. Và noi theo gương Mẹ Ma-ri-a, Mẹ Đức Giê-su, “chúng ta ước muốn trở thành một Giáo hội phục vụ, rời nhà và tiến bước, ra khỏi những nơi thờ phượng, phòng áo lễ, ngõ hầu đồng hành với cuộc sống, duy trì niềm hy vọng, trở nên dấu chỉ hiệp nhất…nhằm kiến tạo cầu nối, giật sập tường luỹ, và gieo trồng hạt giống hòa giải” [270].
Căn tính Ki-tô giáo
277. Giáo hội trân quí những phương cách mà Thiên Chúa hoạt động nơi các tôn giáo khác, và “không bao giờ phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo ấy. Giáo Hội rất tôn trọng lối sống và cung cách hành xử, cũng như những huấn giới và giáo thuyết của họ…, nhưng vẫn thường phản chiếu một tia sáng chân lý đang soi tỏ tất cả mọi người” [271]. Tuy nhiên, là Ki-tô hữu, chúng ta ý thức rất rõ rằng “giả như âm nhạc của Tin Mừng ngừng vang lên trong chính hữu thể bản thân, thì chúng ta sẽ đánh mất niềm hoan lạc phát sinh từ lòng cảm thương, tình yêu trìu mến phát sinh từ lòng tín thác, khả năng hòa giải vốn bắt nguồn từ nhận thức này: chúng ta đã được tha thứ và được sai đi. Nếu âm hưởng du dương của Tin Mừng ngừng vang vọng trong gia đình chúng ta, quảng trường công cộng, công xưởng, nơi đời sống chính trị và tài chính, thì chúng ta sẽ chẳng còn nghe thấy những giai điệu vốn thách thức chúng ta bảo vệ phẩm giá của mọi người nam cũng như nữ” [272]. Ai đó uống từ các nguồn nước khác; còn đối với chúng ta, nguồn suối của nhân phẩm và tình huynh đệ chính ở nơi Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô. Từ đó nảy sinh “quyền tối thượng dành cho mối liên hệ, cho sự gặp gỡ với tính huyền nhiệm linh liêng của tha nhân, cho niềm hiệp thông phổ quát với toàn thể gia đình nhân loại, tựa như một ơn gọi của mọi người, xét theo tư tưởng Ki-tô giáo và sinh hoạt Giáo hội” [273].
278. Được kêu mời bén rễ sâu vào mọi nơi, Giáo hội đã hiện diện trên khắp thế giới hàng nhiều thế kỷ nay, và đây chính là ý nghĩa của hạn từ “công giáo”. Như thế, từ cảm nghiệm ân sủng và tội lỗi của mình, Giáo hội có thể thông hiểu vẻ đẹp của lời mời yêu thương phổ quát. Thật vậy, “mọi điều nhân bản đều là mối quan tâm của chúng ta…bất cứ nơi nào mà hội đồng các quốc gia nhóm họp với nhau để thiết lập quyền lợi và nghĩa vụ của con người, thì chúng ta rất vinh dự được đứng vào hàng ngũ giữa họ” [274]. Đối với nhiều Ki-tô hữu, trong hành trình huynh đệ này cũng đều có Mẹ, người mẹ tên là Ma-ri-a. Khi lãnh nhận thiên chức người mẹ phổ quát này dưới chân thập giá (x. Ga 19, 26), Mẹ không chỉ quan tâm đến Đức Giê-su, mà còn ưu ái “tất cả con cái của Mẹ” nữa (x. Kh 12, 17). Nhờ quyền năng của Chúa Phục sinh, Mẹ muốn khai sinh một thế giới mới, mà nơi đó, tất cả chúng ta là anh chị em, nơi đó luôn có chỗ dành cho hết thảy những ai bị xã hội loại bỏ, nơi đó công lý và hòa bình được rạng rỡ tôn vinh.
279. Tại những quốc gia Ki-tô hữu là thiểu số, chúng ta yêu cầu được bảo đảm quyền tự do, ngay cả khi chính mình cổ vũ quyền tự do ấy cho những ai ngoài Ki-tô giáo đang ở nơi mà họ là thiểu số. Một nhân quyền căn bản không được quên trên chặng đường hướng tới tình huynh đệ và hòa bình, đó là quyền tự do tôn giáo cho các tín đồ của mọi tôn giáo. Tự do này công bố rằng chúng ta có thể “xây dựng tính hòa hợp và sự hiểu biết giữa những nền văn hóa và tôn giáo khác nhau. Bởi vì điều quan trọng mà chúng ta chia san cho nhau rất nhiều, nên nó cũng minh chứng cho thực tại này là có thể tìm ra một phương thế để chung sống thanh bình, quy cũ và yên hàn, chấp nhận sự khác biệt của nhau và hân hoan như con cái của một Chúa, vì chúng ta hết thảy đều là anh chị em” [275].
280. Đồng thời, chúng ta cầu xin Thiên Chúa củng cố tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội, tình hiệp nhất được phong phú hơn nhờ những khác biệt mà Thần Khí hoà giải. Vì “tất cả chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1Cr 12, 13), và nơi đây mỗi thành viên đều chung tay đóng góp phần riêng biệt của mình. Thánh Âu-gus-ti-nô đã từng nói, “tai nhìn qua mắt, và mắt nghe qua tai” [276]. Tương tự, tiếp tục làm chứng tá cho cuộc hành trình gặp gỡ giữa các tín phái Ki-tô giáo khác nhau cũng cần kíp chẳng kém. Chúng ta không thể quên lãng ước muốn của Đức Ki-tô “xin cho chúng hết thảy nên một” (x. Ga 17, 21). Nghe lời mời gọi của Người, chúng ta đau xót nhận ra rằng tiến trình toàn cầu hóa vẫn còn thiếu phần đóng góp mang tính ngôn sứ và tâm linh của tình hiệp nhất giữa các Ki-tô hữu. Dù vậy, “ngay cả khi chúng ta đang hành trình tiến về niềm hiệp thông trọn vẹn này chăng nữa, thì chúng ta phải trở nên chứng tá chung quy cho tình yêu Thiên Chúa vốn dành cho mọi người bằng cách cùng nhau phục vụ nhân loại” [277].
TÔN GIÁO VÀ BẠO LỰC
281. Chặng đường hòa bình là điều khả hữu giữa các tôn giáo, và điểm xuất phát của nó phải là cách thức mà Thiên Chúa nhìn ngắm sự vật. “Thiên Chúa không quan sát bằng đôi mắt, nhưng Người nhìn thấu tỏ bằng con tim. Và Chúa yêu thương mọi người như nhau, bất luận tôn giáo nào. Thậm chí lúc họ là những người vô thần, thì tình yêu Người vẫn vậy. Khi ngày cánh chung đến, và ánh sáng đủ để nhìn rõ mọi vật như bản chất thực sự của nó, cũng là lúc chúng ta sẽ nhận thấy mình khá đỗi kinh ngạc” [278].
282. Do đó, “các tín hữu chúng ta cần tìm dịp chuyện trò với nhau, cũng như cùng nhau hành động vì lợi ích chung và động viên khích lệ người nghèo. Điều này chẳng liên quan gì đến việc hạ thấp hoặc che giấu các xác tín sâu thẳm nhất của chúng ta khi gặp gỡ những người khác không cùng chung suy nghĩ với mình…Vì căn tính của chúng ta càng sâu sắc, mạnh mẽ và phong phú, thì chúng ta càng có khả năng khiến người khác giàu có phong phú hơn bằng các đóng góp thích đáng của bản thân” [279]. Chúng ta những tín hữu được thử thách trở về với nguồn cội, hầu tập trung vào điều thiết yếu, đó là: thờ phượng Thiên Chúa và yêu mến người lân cận; nếu không, một số giáo huấn của chúng ta, khi bị tách biệt khỏi bối cảnh, dẫn đến kết cuộc vỗ béo các hình thái khinh miệt, hận thù, bài ngoại hoặc cự tuyệt người khác. Thật sự bạo lực chẳng có cơ sở nào trong những xác tín tôn giáo nền tảng của chúng ta, hoạ chăng, nó chỉ vất vưởng trong tình trạng méo mó mà thôi.
283. Thờ phượng Thiên Chúa khiêm cung chân thành “không mang lại hoa trái kỳ thị, hận thù và bạo lực, mà là hoa trái tôn trọng tính thánh thiêng của sự sống, tôn trọng phẩm giá và tự do của tha nhân, và yêu thương cam kết dấn thân vì phúc lợi cho mọi người” [280]. Quả thật, “ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8). Vì vậy, "chủ nghĩa khủng bố là tồi tệ và nó đe dọa an ninh của người dân – dù họ ở phương Đông hay phương Tây, phương Bắc hay phương Nam – rồi còn gieo rắc nỗi sợ hãi, kinh hoàng và bi quan yếm thế nữa; nhưng điều này chẳng phải do tôn giáo, cho dẫu những kẻ khủng bố vốn biến nó thành công cụ. Đúng hơn, do sự tích tụ các lối biện giải sai lạc về bản văn tôn giáo, cũng như những chính sách liên quan đến nạn đói nghèo, bất công, áp bức và tự cao. Đây chính là lý do tại sao cần phải ngưng hỗ trợ các phong trào khủng bố, mà chúng đang được thúc đẩy nhờ những khoản tài chính, chi viện vũ khí và chiến lược, cũng như nhờ mưu đồ toan tính biện minh cho các phong trào này, thậm chí dùng đến cả các phương tiện truyền thông. Tất cả những điều này phải được coi là tội ác quốc tế vì chúng đe dọa an ninh và hòa bình thế giới. Chủ nghĩa khủng bố như thế phải bị lên án dưới mọi hình thức biểu đạt của nó” [281]. Các xác tín tôn giáo về ý nghĩa thánh thiêng của sự sống con người cho phép chúng ta “nhận ra những giá trị nền tảng của nhân tính chung nơi ta, các giá trị mà nhân danh chúng, ta có thể và phải hợp tác, kiến thiết, đối thoại, tha thứ cùng phát triển; điều này sẽ giúp vô số tiếng nói khác nhau hợp nhất, nhằm tạo ra một giai điệu cao quý và đẹp đẽ siêu phàm, thay vì những tiếng thét hận thù cuồng tín” [282].
284. Đôi lúc bạo lực duy cực đoan được xổ lồng trong một số đoàn thể, thuộc bất cứ tôn giáo nào, bởi tính hấp tấp của giới lãnh đạo họ. Tuy nhiên, “giới răn an hoà được khắc sâu trong các truyền thống tôn giáo mà chúng ta đại diện…Với vai trò lãnh đạo tôn giáo, chúng ta được mời gọi trở nên ‘những người đối thoại’ chân chính, trên tinh thần hợp tác kiến tạo hòa bình không phải với tư cách của người trung gian, mà là những nhà hòa giải đích thật. Người trung gian tìm cách giảm giá cho mọi người, nhưng cuối cùng vẫn để thu lợi gì đó cho chính họ. Trái lại, người hòa giải không giữ lại cho mình, mà đúng hơn, quảng đại dấn thân đến cùng kiệt, và chỉ biết điều duy nhất thu lợi được là an bình. Mỗi người chúng ta được mời gọi trở thành nghệ nhân của hòa bình, bằng cách hợp nhất chứ không chia rẽ, bằng cách dập tắt hận thù chứ không duy trì nó, bằng cách mở ra những nẻo đường đối thoại chứ chẳng phải xây đắp tường luỹ mới” [283].
Một lời kêu gọi
285. Trong cuộc gặp gỡ đầy tình huynh đệ với Đại Imam Ahmad Al-Tayyeb mà tôi vui mừng nhớ lại, “chúng tôi đã kiên quyết [tuyên bố] rằng các tôn giáo không bao giờ được kích động chiến tranh, thái độ thù hận, thói hiềm tị thù địch và chủ nghĩa cực đoan, cũng như không xúi giục bạo lực hoặc gây ra đổ máu. Những thực tại bi thảm này là hậu quả của tình trạng lệch lạc xa rời các giáo huấn tôn giáo. Chúng là kết quả của sự thao túng chính trị đối với tôn giáo và những diễn giải của các nhóm tôn giáo, mà họ đã từng lợi dụng sức mạnh của tình cảm tôn giáo nơi trái tim những người đàn ông và phụ nữ trong suốt dòng lịch sử…Thiên Chúa, Đấng Toàn năng, chẳng cần ai bênh vực và không muốn danh thánh Người bị lợi dụng nhằm khủng bố con người” [284]. Vì lý do này, tôi xin nhắc lại ở đây lời kêu gọi cho hòa bình, công lý và tình huynh đệ mà chúng tôi đã cùng nhau cam kết:
“Nhân danh Thiên Chúa, Ðấng tạo dựng mọi người bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ và phẩm giá, rồi mời gọi họ chung sống với nhau như anh chị em, hầu sinh sôi nảy nở khắp mặt đất và thông truyền cho hết mọi người biết đến các giá trị tốt lành, bác ái và hòa bình;
“Nhân danh mạng sống con người vô tội mà Thiên Chúa vốn nghiêm cấm sát hại, quả quyết rằng ai giết chết một người thì giống như giết hại cả nhân loại, ai cứu sống một người tựa như cứu sống cả nhân loại;
“Nhân danh người nghèo, người cơ cực, người bị đẩy ra ngoài xã hội và thiếu thốn nhất, họ là những người mà Thiên Chúa đã truyền cho chúng ta phải giúp đỡ như một bổn phận bắt buộc đối với hết thảy mọi người, đặc biệt những ai phú quý giàu sang và có phương tiện;
“Nhân danh trẻ mồ côi, người góa phụ, tị nạn và những ai bị đày ải rời xa gia đình và quê hương đất nước họ; nhân danh tất cả các nạn nhân của chiến tranh, bách hại và bất công; nhân danh kẻ yếu thế, những ai sống trong nỗi sợ hãi, các tù nhân chiến tranh và người bị tra tấn ở bất cứ đâu trên thế giới mà không chút phân biệt nào;
“Nhân danh những dân tộc đã bị mất an ninh, hòa bình và khả thể chung sống với nhau, trở thành nạn nhân của sự hủy diệt, thiên tai và chiến tranh;
“Nhân danh tình huynh đệ nhân bản, vốn ôm trọn mọi hữu thể con người, hợp nhất và làm cho họ bình đẳng;
“Nhân danh tình huynh đệ này đã từng bị xé nát bởi các chính sách cực đoan và chia rẽ, do nhiều hệ thống lợi nhuận lỏng lẻo hoặc các khuynh hướng ý thức hệ hận thù, chuyên thao túng hoạt động cũng như tương lai của những người đàn ông và phụ nữ;
“Nhân danh tự do mà Thiên Chúa tặng ban cho mọi hữu thể nhân vị, nhờ ơn phúc này, họ được dựng nên thành người tự do và được đặt để riêng biệt;
“Nhân danh công lý và lòng thương xót, vốn là các nền tảng của sự hưng thịnh và đá tảng góc tường của đức tin;
“Nhân danh tất cả mọi người thiện chí đang hiện diện khắp nơi trên thế giới;
“Nhân danh Thiên Chúa và mọi điều đã được đề cập trên đây, [chúng tôi] tuyên bố chấp nhận nền văn hóa đối thoại như nẻo đường chân chính; tinh thần hợp tác đôi bên như quy tắc ứng xử; sự hiểu biết lẫn nhau như phương pháp và tiêu chuẩn” [285].
* *
286. Trong những trang suy tư về tình huynh đệ phổ quát này, tôi cảm thấy được Thánh Phan-xi-cô Át-si-si truyền cảm hứng một cách đặc biệt, cũng như vô số nhân vật ngoài Công giáo, họ là anh chị em chúng ta như: Mar-tin Lu-ther King, Đes-mond Tu-tu, Ma-hát-ma Gan-dhi và nhiều người khác. Tuy nhiên, tôi xin khép lại suy tư này qua việc đề cập đến một nhân vật của đức tin thâm sâu, người đã nhờ vào cảm nghiệm mãnh liệt của mình về Thiên Chúa, mà thực hiện một cuộc hành trình biến đổi, hầu cảm nhận bản thân như thể là anh em của hết thảy mọi người. Và tôi đang muốn nói tới Chân phước Sác-đờ-Fucô (Charles de Foucauld).
287. Chân phước Sác-đờ-Fucô đã điều hướng lý tưởng phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa, ngõ hầu trở nên đồng nhất với người nghèo khổ, người bị bỏ rơi trong cùng tận sa mạc Phi Châu. Trong khung cảnh đó, ngài bày tỏ mong muốn được cảm nhận mình như thể người anh em của mọi người [286], và đã xin một người bạn “cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho tôi thực sự là anh em của tất cả mọi người” [287]. Sau hết, ngài đã ước ao trở thành “người anh em phổ quát” [288]. Tuy nhiên, nói cho cùng, chỉ bằng cách đồng nhất với những người bé nhỏ nhất, ngài mới trở thành người anh em của mọi người. Xin Thiên Chúa ban nguồn cảm hứng cho ước mơ ấy trong mỗi người chúng ta. Amen.
Lời nguyện với Đấng Tạo Hoá
Lạy Chúa, Cha chung của gia đình nhân loại chúng con,
Cha đã tạo dựng mọi người bình đẳng về phẩm giá:
tuôn đổ đầy tràn vào tâm hồn chúng con một tinh thần huynh đệ
và khơi nguồn cảm hứng nơi chúng con một ước mơ gặp gỡ canh tân,
đối thoại, công lý và hòa bình.
Xin Cha thúc đẩy chúng con ra đi kiến tạo xã hội lành mạnh
và một thế giới xứng hợp hơn,
một thế giới chẳng còn đói kém, nghèo nàn, bạo lực và chiến tranh.
Nguyện xin tâm hồn chúng con được mở rộng với tất cả các dân tộc
và mọi quốc gia trên mặt đất này.
xin cho chúng con nhận ra lòng nhân hậu và vẻ đẹp mỹ miều
mà Cha đã gieo trồng nơi mỗi người chúng con,
và nhờ đó tạo nên mối dây hợp nhất, cùng chung các dự án,
và những ước mơ. Amen.
Kinh cầu Đại kết Ki-tô giáo
Lạy Thiên Chúa, Ba Ngôi tình yêu,
từ nguồn hiệp thông sâu thẳm của sự sống thần tính Ngài,
xin tuôn đổ trên chúng con dòng suối bác ái đệ huynh.
Xin ban cho chúng con lòng mến, mà nó đã được diễn tả
qua các hành động của Chúa Giê-su, nơi gia đình Na-za-rét,
và trong cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi.
Xin ban ơn cho chúng con là những Ki-tô hữu biết sống theo Tin Mừng,
khám phá ra Chúa Ki-tô nơi mỗi người,
nhận ra Ngài bị đóng đinh
nơi biết bao nỗi thống khổ của những người bị bỏ rơi
và bị lãng quên trong thế giới chúng con,
nhưng Ngài đã phục sinh nơi mỗi người anh chị em,
mà họ đang ra sức thực hiện một khởi đầu mới.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến, soi sáng cho chúng con nhìn thấy vẻ đẹp của Ngài, vốn được tỏ rạng trong mọi dân tộc trên mặt đất này,
ngõ hầu chúng con có thể tái khám phá ra rằng:
tất cả mọi người đều quan trọng và cần thiết,
sỡ hữu những diện mạo khác nhau của một nhân loại,
mà vốn được Thiên Chúa hết mực yêu thương. Amen.
Ban hành tại Át-si-si, ngay ngôi mộ của Thánh Phan-xi-cô, vào ngày 3 tháng 10, Lễ vọng Thánh nhân, năm 2020, năm thứ tám triều Giáo hoàng của tôi.
Phan-xi-cô
Chuyển ngữ: Lm. Xuân Hy Vọng
CHÚ THÍCH:
[1] Huấn dụ, 6, 1. Ấn bản tiếng Anh theo tác phẩm Francis of Assisi: Early Documents [tạm dịch: Phan-xi-cô Át-si-zi: Các Văn Kiện Sơ Khai], tập 1. New York, London, Manila (1999), 131.
[2] nt., 25: tác phẩm đã trưng dẫn (op.cit.), 136.
[3] Thánh Phan-xi-cô Át-si-zi, Earlier Rule of the Friars Minor (Regula non bullata) [tạm dịch: Luật dòng tiên khởi của Anh em Hèn mọn], 16:3.6: tác phẩm đã trưng dẫn, 74.
[4] Eloi Leclerc, O.F.M., Exil et tendresse [tạm dịch: Cuộc lưu đày và lòng bao dung], do Hội dòng Phansinh biên soạn, Paris, 1962, 205.
[5] Văn thư về Tình huynh đệ nhân bản cho Hoà bình Thế giới và Cùng chung sống, Abu Dhabi (4/2/2019): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 4-5/2/2019, tr. 6.
[6] Diễn văn tại Hội nghị Đại kết và Đối thoại Liên tôn với Giới trẻ, Skopje, Bắc Ma-cê-đô-ni-a (7/5/2019): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 9/5/2019, tr. 9.
[7] Diễn văn tại Quốc hội Âu Châu, Strasbourg (25/11/2014): AAS 106 (2014), 996.
[8] Gặp gỡ Chính quyền, Xã hội Dân sự và Đội vệ binh Ngoại giao, Santiago, Chile (16/1/2018): AAS 110 (2018), 256.
[9] Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 19: AAS 101 (2009), 655.
[10] Tông huấn Hậu thượng Hội đồng Giám mục Christus vivit (25/3/2019), 181.
[11] Hồng Y Raúl Silva Henríquez, Bài giảng tại Te Deum, Santiago de Chile (18/9/1974).
[12] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 57: AAS 107 (2015), 869.
[13] Diễn văn dành cho Phái đoàn Ngoại giao tại Toà Thánh (11/1/2016): AAS 108 (2016), 120.
[14] Diễn văn dành cho các Phái bộ Ngoại giao tại Toà Thánh (13/1/2014): AAS 106 (2014), 83-84.
[15] x. Diễn văn dành cho Hiệp hội Tổ chức “Kỷ niệm Bách chu niên triều Giáo hoàng” (25/5/2013): Insegnamenti [Giáo huấn] I, 1 (2013), 238.
[16] x. Thánh Giáo hoàng Phao-lô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26/3/1967): AAS 59 (1967), 264.
[17] Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caristas in Veritate (29/6/2009), 22: AAS 101 (2009), 657.
[18] Diễn văn dành cho Giới chính quyền Dân sự, Tirana, Albania (21/9/2014): AAS 106 (2014), 773.
[19] Sứ điệp dành cho Tham dự viên Hội nghị Quốc tế “Nhân quyền trong Thế giới Đương đại: Thành quả, Khiếm khuyết bỏ nhỡ, Tiêu cực” (10/12/2018): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 10-11/12/2018, tr. 8.
[20] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 212: AAS 105 (2013), 1108.
[21] Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới 2015 (8/12/2014), 3-4: AAS 107 (2015), 69-71.
[22] Nt, 5: AAS 107 (2015), 72.
[23] Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới 2016 (8/12/2015), 2: AAS 108 (2016), 49.
[24] Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới 2020 (8/12/2019), 1: Tờ Quan sát viên Rô-ma, 13/12/2019, tr. 8.
[25] Diễn văn về Vũ khí Hạt nhân, Na-ga-sa-ki, Nhật Bản (24/11/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 25-26/11/2019, tr. 6.
[26] Đối thoại với Sinh viên và Giảng viên thuộc Đại học San Clarlo tại Mi-lan (6/4/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 8-9/4/2019, tr. 6.
[27] Văn thư về Tình huynh đệ nhân bản cho Hoà bình Thế giới và Cùng chung sống, Abu Dhabi (4/2/2019): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 4-5/2/2019, tr. 6.
[28] Diễn văn nhân dịp Ngày Quốc Tế Văn hoá, Cagliari, Ý (22/9/2013): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 23-24/9/2013, tr. 7.
[29] Humana Communitas [Cộng đồng Nhân loại]. Thư gửi Viện trưởng Viện Hàn Lâm Giáo Hoàng về Sự sống nhân dịp kỷ niệm 25 năm Thành lập (6/1/2019), 2.6: Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 16/1/2019, tr. 6-7.
[30] Diễn văn Video dành cho Hội nghị TED tại Vancouver (26/4/2017): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 27/4/2017, tr. 7.
[31] Thời khắc Cầu nguyện Ngoại thường trong Đại dịch (27/3/2020): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 29/3/2020, tr. 10.
[32] Bài giảng tại Skopje, Bắc Ma-cê-đô-ni-a (7/5/2019): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 8/5/2019, tr. 12.
[33] x. Aeneid [tạm dịch: Tiếng Chuông] 1, 462: “Sunt lacrimae rerum et mentem mortalia tangunt” [tạm dịch: “Những giọt lệ của tạo vật và từ đau khổ của con người”].
[34] “Historia…magistra vitae” [tạm dịch: “Lịch sử…bậc thầy của cuộc đời”] (Cicero, De Oratore [Nhà hùng biện], 2, 6).
[35] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 204: AAS 107 (2015), 928.
[36] Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Christus Vivit (25/3/2019), 91.
[37] Nt, 92.
[38] Nt, 93.
[39] Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Sứ điệp Ngày Di dân và Tị nạn Thế giới 2013 (12/10/2012): AAS 104 (2012), 908.
[40] Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Christus Vivit (25/3/2019), 92.
[41] Sứ điệp Ngày Di dân-Tị nạn Thế giới 2020 (13/5/2020): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 16/5/2020, tr. 8.
[42] Diễn văn dành cho các Phái bộ Ngoại giao tại Toà Thánh (11/1/2016): AAS 108 (2016), 124.
[43] Diễn văn dành cho các Phái bộ Ngoại giao tại Toà Thánh (13/1/2014): AAS 106 (2014), 84.
[44] Diễn văn dành cho các Phái bộ Ngoại giao tại Toà Thánh (11/1/2016): AAS 108 (2016), 123.
[45] Sứ điệp Ngày Di dân-Tị nạn Thế giới 2019 (27/5/2019): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 27-28/5/2019, tr. 8.
[46] Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Christus Vivit (25/3/2019), 88.
[47] Nt, 89.
[48] Tông huấn Gaudete et Exsultate (19/3/2018), 115.
[49] Dựa trên bộ phim Pope Francis: A Man of His Word [tạm dịch: Giáo Hoàng Phan-xi-cô: Người giữ Lời], của tác giả Wim Wenders (2018).
[50] Diễn văn dành cho Chính quyền, Xã hội Dân sự và Đội vệ binh Ngoại giao, Tallinn, Es-tô-ni-a (25/9/2018): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 27/9/2018, tr. 7.
[51] x. Thời khắc Cầu nguyện Ngoại thường trong Đại dịch (27/3/2020): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 29/3/2020, tr. 10; Sứ điệp Ngày Thế giới dành cho Người nghèo 2020 (13/6/2020), 6: Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 14/6/2020, tr. 8.
[52] Diễn văn đón chào Giới trẻ tại Trung tâm Văn hoá Padre Félix Varela, Ha-va-na, Cu-ba (20/9/2015): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 21-22/9/2015, tr. 6.
[53] Cộng đồng Va-ti-can II, Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới Ngày nay Gaudium et Spes, 1.
[54] Thánh I-rê-nê thành Ly-on, Adversus Haereses [Chống Lạc giáo], II, 25, 2; PG 7/1, 798tt.
[55] Talmud Bavli (Sách Talmud Ba-by-lon), Shabbat, 31a.
[56] Diễn văn dành cho Những ai được Tổ chức Bác ái của Giáo hội Trợ giúp, Tallinn, Es-tô-ni-a (25/9/2018): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 27/9/2018, tr. 8.
[57] Diễn văn Video dành cho Hội nghị TED tại Vancouver (26/4/2017): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 27/4/2017, tr. 7.
[58] Homiliae in Matthaeum (tạm dịch: Bài giảng về Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu), 50: 3-4: PG 58, 508.
[59] Sứ điệp tại Buổi gặp gỡ các Phong trào Giáo dân, Modesto, Ca-li-for-ni-a, Hoa Kỳ (10/2/2017): AAS 109 (2017), 291.
[60] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 235: AAS 105 (2013), 1115.
[61] Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, Sứ điệp cho người Khuyết tật, Kinh Truyền Tin tại Osnabrück, Đức (16/11/1980): Insegnamenti (Giáo huấn) III, 2 (1980), 1232.
[62] Công đồng Va-ti-can II, Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới Hôm nay Gaudium et Spes, 24.
[63] Gabriel Marcel, Du refus à l’invocation (tạm dịch: Từ lời từ chối đến sự khẩn cầu), được NRF biên soạn, Pa-ris, 1940, 50.
[64] Kinh Truyền Tin (10/11/2019): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 11-12/11/2019, tr. 8.
[65] x. Thánh Tô-ma A-qui-nô: Scriptum super Sententiis (tạm dịch: Cách hành văn), lib. 3, dist. 27, q. 1, a. 1. ad 4: “Dicitur amor extasim facere et fervere, quia quod fervet extra se bullit et exhalat”.
[66] Karol Wojtyła, Love and Responsibility (tạm dịch: Tình yêu và Trách nhiệm), Luân-đôn, 1982, 126.
[67] Karl Rahner, Kleines Kirchenjahr. Ein Gang durch den Festkreis (tạm dịch: Lịch Giáo hội thu nhỏ. Bước qua Chu kỳ Lễ hội), Herderbücherei 901, Freiburg, 1981, 30.
[68] Regula (Sách luật), 53, 15: “Pauperum et peregrinorum maxime susceptioni cura sollicite exhibeatur” (tạm dịch: “Khi tiếp đón người nghèo và khách hành hương, phải biểu lộ sự ân cần và chăm sóc hết mực”).
[69] x. Tổng luận Thần học, II-II, q. 23, a. 7; Thánh Âu-gus-ti-nô, Contra Julianum (Chống lại Bè phái Ju-li-an), 4, 18: PL 44, 748: “How many pleasures do misers forego, either to increase their treasures or for fear of seeing them diminish!” (tạm dịch: “người keo kiệt bỏ biết bao nhiêu thú vui chỉ để tích góp kho báu của họ hoặc sợ nhìn chúng biến mất!”).
[70] “Secundum acceptionem divinam” (Scriptum super Sententiis, lib. 3, dist. 27, a. 1, q. 1, concl. 4) [tạm dịch: “Nhờ vào việc đón nhận Thiên Chúa” (Cách hành văn, cuốn 3, triệt 27, điều 1, câu hỏi 1, kết luận 4)].
[71] Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Deus Caritas Est (25/12/2005), 15: AAS 98 (2006), 230.
[72] Tổng luận Thần học II, II, q. 27, a. 2, resp.
[73] x. Nt, I-II, q. 26, a. 3, resp.
[74] Nt, q. 110, a. 1, resp.
[75] Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới 2014 (8/12/2013), 1: AAS 106 (2014), 22.
[76] x. Kinh Truyền Tin (29/12/2013): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 30-31/12/2013, tr. 7; Diễn văn dành cho Phái bộ Ngoại giao tại Toà Thánh (12/1/2015): AAS 107 (2015), 165.
[77] Sứ điệp Ngày Quốc tế dành cho Người thiểu năng (3/12/2019): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 4/12/2019, tr. 7.
[78] Diễn văn tại Hội nghị về Tự do Tôn giáo với Cộng đồng người gốc Nam Mỹ và các nhóm Di dân, Phi-la-del-phi-a, Penn-syl-va-ni-a, Hoa Kỳ (26/9/2015): AAS 107 (2015), 1050-1051.
[79] Diễn văn dành cho Giới trẻ, Tô-ki-ô, Nhật Bản (25/11/2019): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 25-26/11/2019, tr. 10.
[80] Về các nhận định này, tôi lấy nguồn cảm hứng từ tư tưởng của Paul Ricoeur, “Le socius et le prochain” (tạm dịch: “Xã hội và người thân cận”), trong cuốn Histoire et Verité (Lịch sử và Chân lý), Le Seuil biên soạn, Pa-ris, 1967, 113-127.
[81] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 190: AAS 105 (2013), 1100.
[82] Nt, 209: AAS 105 (2013), 1107.
[83] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 129: AAS 107 (2015), 899.
[84] Sứ điệp cho Sự kiện “Nền kinh tế Phan-xi-cô” (1/5/2019): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 12/5/2019, tr. 8.
[85] Diễn văn trước Quốc hội Châu Âu, Strasbourg (25/11/2014): AAS 106 (2014), 997.
[86] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 129: AAS 107 (2015), 937.
[87] Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới 2016 (8/12/2015), 6: AAS 108 (2016), 57-58.
[88] Theo ngữ học, từ “solidity” (sự kiên vững) liên quan đến từ “solidarity” (sự đoàn kết). Theo nghĩa đạo đức-chính trị mà sử dụng trong hai thế kỷ qua, thì “sự đoàn kết” dẫn tới hiệp ước xã hội an toàn và kiên vững.
[89] Bài giảng, Ha-va-na, Cu-ba (20/9/2015): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 21-22/9/2015, tr. 8.
[90] Diễn văn dành cho Tham dự viên Buổi gặp gỡ các Phong trào Giáo dân (28/10/2014): AAS 106 (2014), 851-852.
[91] x. Thánh Ba-si-li-ô, Homilia XXI, Quod rebus mundanis adhaerendum non sit [tạm dịch: Bài giảng XXI, Nỗ lực này không hệ tại vào những gì thế tục], 3. 5: PG 31, 545-549; Regulae brevius tractatae [tạm dịch: Luật tóm lược], 92: PG 31, 1145-1148; Thánh Phê-rô Kim Ngôn, Sermo [Bài giảng] 123: PL 52, 536-540; Thánh Am-brô-si-ô, De Nabuthe [Về ông Na-vốt người Gít-rơ-en], 27. 52: PL 14, 738tt; Thánh Âu-gus-ti-nô, In Iohannis Evangelium [Tin Mừng theo Thánh Gio-an], 6, 25: PL 35, 1436tt.
[92] De Lazaro Concio [Bài giảng về La-za-rô], II, 6: PG 48, 992D.
[93] Regula Pastoralis [Quy định Mục vụ], III, 21: PL 77, 87.
[94] Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus Annus (1/5/1991), 31: AAS 83 (1991), 831.
[95] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 93: AAS 107 (2015), 884.
[96] Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Laborem Exercens (14/9/1981), 19: AAS 73 (1981), 626.
[97] x. Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, 172.
[98] Thánh Giáo hoàng Phao-lô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26/3/1967): AAS 59 (1967), 268.
[99] Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialisi (30/12/1987), 33: AAS 80 (1988), 557.
[100] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 95: AAS 107 (2015), 885.
[101] Nt, 129: AAS 107 (2015), 899.
[102] x. Thánh Giáo hoàng Phao-lô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26/3/1967): AAS 59 (1967), 265; Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 16: AAS 101 (2009), 652.
[103] x. Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 95: AAS 107 (2015), 884-885; Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 189-190: AAS 105 (2013), 1099-1100.
[104] Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ, Thư Mục vụ chống lại Chủ nghĩa Chủng tộc Open Wide Our Hearts: The Enduring Call to Love [tạm dịch: Hãy mở rộng Tâm hồn: Lời mời gọi Không ngừng Yêu thương] (11/2018).
[105] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 95: AAS 107 (2015), 867.
[106] x. Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 6: AAS 101 (2009), 644.
[107] Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus Annus (1/5/1991), 35: AAS 83 (1991), 838.
[108] Diễn văn về Vũ khí Hạt nhân, Na-ga-sa-ki, Nhật Bản (24/11/2019): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 21-26/11/2019, 6.
[109] x. Hội đồng Giám mục Công giáo Mê-xi-cô và Hoa Kỳ, A Pastoral Letter Concerning Migration: “Strangers No Longer Together on the Journey of Hope” [tạm dịch: Thư Mục vụ về Hiện trạng Di dân: “Người xa lạ chẳng còn Đồng hành trên Chặng đường Hy vọng nữa”] (1/2003).
[110] Buổi tiếp kiến Chung (3/4/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 4/4/2019, tr. 8.
[111] x. Sứ điệp Ngày Di dân-Tị nạn Thế giới 2018 (14/1/2018): AAS 109 (2017), 918-923.
[112] Văn thư về Tình huynh đệ Nhân bản cho Nền hoà bình Thế giới và Chung sống, Abu Dhabi (4/2/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 4-5/2/2019, tr. 7.
[113] Diễn văn dành cho Phái bộ Ngoại giao tại Toà Thánh, 11/1/2016: AAS 108 (2016), 124.
[114] Nt, 122.
[115] Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới Christus Vivit (25/3/2019), 93.
[116] Nt, 94.
[117] Diễn văn dành cho Các chính quyền, Sarajevo, Bosnia và Herzegovina (6/6/2015): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 7/6/2015, tr. 7.
[118] Latinoamérica. Conversaciones con Hernán Reyes Alcaide [tạm dịch: Châu Mỹ La-tinh. Hội đàm với Hernán Reyes Alcaide], Planeta biên soạn, Buenos Aires, 2017, 105.
[119] Văn thư về Tình huynh đệ Nhân bản cho Nền hoà bình Thế giới và Chung sống, Abu Dhabi (4/2/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 4-5/2/2019, tr. 7.
[120] Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 67: AAS 101 (2009), 700.
[121] Nt, 60: AAS 101 (2009), 695.[122] Nt, 67: AAS 101 (2009), 700.
[123] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, 447.
[124] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 234: AAS 105 (2013), 1115.
[125] Nt, 235: AAS 105 (2013), 1115.
[126] Nt.
[127] Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Diễn văn dành cho Giới đại diện Văn hoá Ar-hen-ti-na, Buenos Aires, Ar-hen-ti-na (12/4/1987), 4: Tờ Quan sát viên Rô-ma, 14/4/1987, tr. 7.
[128] x. Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Diễn văn dành cho Giáo triều Rô-ma (21/12/1984), 4: AAS 76 (1984), 506.
[129] Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Giám mục Querida Amazonia (2/2/2020), 37.
[130] Georg Simmel, Brücke und Tür. Essays des Philosophen zur Geschichte, Religion, Kunst und Gesellschaft [tạm dịch: Cầu nối và Cánh cửa. Tiểu luận của Triết gia về Lịch sử, Tôn giáo, Nghệ thuật và Xã hội], Michael Landmann biên soạn, Köhler-Verlag, Stuttgart, 1957, 6.
[131] x. Jaime Hoyos-Vásquez, S.J., “Lógica de las relaciones sociales. Reflexión onto-lógica” [tạm dịch: “Luận lý về các Mối quan hệ Xã hội. Suy tư về mặt Bản thể luận”], Revista Universitas Philosophica [Tạm chí nghiên cứu Chuyên ngành Triết học], 15-16 (tháng 12/1990 – tháng 6/1991), Bogotá, 95-106.
[132] ANTONIO SPADARO, S.J., Le orme di un pastore. Una conversazione con Papa Francesco [tạm dịch: Dấu chân Mục tử. Hội đàm với Đức Thánh Cha Phan-xi-cô], trong JORGE MARIO BERGOLIO – GIÁO HOÀNG PHAN-XI-CÔ, Nei tuoi occhi è la mia parola. Omelie e discorsi di Buenos Aires 1999-2013 [tạm dịch: Lời tôi trong đôi mắt bạn. Bài giảng và Diễn thuyết tại Bu-ê-nos Ai-res 1999-2013], Rizzoli, Milan 2016, XVI; x. Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 220-221: AAS 105 (2013), 1110-1111.
[133] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 204: AAS 105 (2013), 1106.
[134] x. Nt: AAS 105 (2013), 1105-1106.
[135] Nt, 202: AAS 105 (2013), 1105.
[136] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 128: AAS 107 (2015), 898.
[137] Diễn văn dành cho các Phái bộ Ngoại giao tại Tòa Thánh (12/1/2015): AAS 107 (2015), 165; x. Diễn văn dành cho Tham dự viên Buổi gặp gỡ các Phong trào Giáo dân Thế giới (28/10/2014): AAS 106 (2014), 851-859.
[138] Điểm tương tự có lẽ được trưng dẫn về phạm trù Kinh Thánh của Nước Thiên Chúa.
[139] PAUL RICOEUR, Histoire et Verité (Lịch sử và Chân lý), Le Seuil biên soạn, Paris, 1967, 122.
[140] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 129: AAS 107 (2015), 899.
[141] Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 35: AAS 101 (2009), 670.
[142] Diễn văn dành cho Tham dự viên Buổi gặp gỡ các Phong trào Giáo dân Thế giới (28/10/2014): AAS 106 (2014), 858.
[143] Nt.
[144] Diễn văn dành cho Tham dự viên Buổi gặp gỡ các Phong trào Giáo dân Thế giới (5/11/2016): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 7-8/11/2016, tr. 4-5.
[145] Nt.
[146] Nt.
[147] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 189: AAS 107 (2015), 922.
[148] Diễn văn dành cho các Thành viên Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York (25/9/2015): AAS 107 (2015), 1037.
[149] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 175: AAS 107 (2015), 916-917.
[150] x. Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 67: AAS 101 (2009), 700-701.
[151] Nt: AAS 101 (2009), 700.
[152] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công giáo, 434.
[153] Diễn văn dành cho các Thành viên Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York (25/9/2015): AAS 107 (2015), 1037, 1041.
[154] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công giáo, 437.
[155] Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế giới 2004, 5: AAS 96 (2004), 117.
[156] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công giáo, 439.
[157] x. Ủy ban Xã hội trực thuộc Hội đồng Giám mục Pháp, Tuyên ngôn Réhabiliter la Politique [tạm dịch: Phục hồi Chính sách] (17/2/1999).
[158] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 189: AAS 107 (2015), 922.
[159] Nt, 196: AAS 107 (2015), 925.
[160] Nt, 197: AAS 107 (2015), 925.
[161] Nt, 181: AAS 107 (2015), 919.
[162] Nt, 178: AAS 107 (2015), 918.
[163] Hội đồng Giám mục Bồ Đào Nha, Thư Mục vụ Responsabilidade Solidária pelo Bem Comum [tạm dịch: Trách nhiệm Hợp nhất vì Thiện ích chung] (15/9/2003), 20; x. Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 159: AAS 107 (2015), 911.
[164] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 191: AAS 107 (2015), 923.
[165] Giáo hoàng Pi-ô XI, Diễn văn với Liên đoàn Sinh viên Đại học Công Giáo Ý (18/12/1927): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 23/12/1927, tr. 3.
[166] x. Giáo hoàng Pi-ô XI, Thông điệp Quadragesimo Anno (15/5/1931): AAS 23 (1931), 206-207.
[167] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 205: AAS 105 (2013), 1106.
[168] Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 2: AAS 101 (2009), 642.
[169] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 231: AAS 107 (2015), 937.
[170] Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 2: AAS 101 (2009), 642.
[171] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công giáo, 207.
[172] Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptor Hominis (4/3/1979), 15: AAS 71 (1979), 288.
[173] x. Thánh Giáo hoàng Phao-lô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26/3/1967), 44: AAS 59 (1967), 279.
[174] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công giáo, 207.
[175] Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 2: AAS 101 (2009), 642.
[176] Nt, 3: AAS 101 (2009), 643.
[177] Nt, 4: AAS 101 (2009), 643.
[178] Nt.
[179] Nt, 3: AAS 101 (2009), 643.
[180] Nt: AAS 101 (2009), 642.
[181] Theo giáo huấn của Thánh Tô-ma A-qui-nô, giáo thuyết luân lý Công Giáo phân biệt giữa các hành vi “được luận ra” và “được lệnh truyền”; x. Tổng luận Thần học, I-II, câu hỏi 8-17; M. ZALBA, S.J., Theologiae Moralis Summa. Theologia Moralis Fundamentalis. Tractatus de Virtutibus Theologicis [tạm dịch: Tổng luận Thần học Luân lý. Thần học Luân lý Đại cương. Luận văn về Nhân đức Đối Thần], BAC biên soạn, Madrid, 1952, tập I, 69; A. ROYO MARÍN, Teología de la Perfección Cristiana [tạm dịch: Thần học của việc Nên trọn lành của Ki-tô hữu], BAC biên soạn, Madrid, 1962, 192-196.
[182] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công giáo, 208.
[183] x. Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (30/12/1987), 42: AAS 80 (1988), 572-574; Thông điệp Centesimus Annus (1/5/1991), 11: AAS 83 (1991), 806-807.
[184] Diễn văn dành cho Tham dự viên Buổi gặp gỡ các Phong trào Giáo dân Thế giới (28/10/2014): AAS 106 (2014), 852.
185] Diễn văn tại Nghị viện Âu Châu, Strasbourg (25/11/2014): AAS 106 (2014), 999.
[186] Diễn văn tại cuộc Gặp gỡ các Chính quyền và Ngoại giao đoàn ở Cộng Hòa Trung Phi, Bangui (29/11/2015): AAS 107 (2015), 1320.
[187] Diễn văn tại Liên Hiệp Quốc, New York (25/9/2015): AAS 107 (2015), 1039.
[188] Diễn văn dành cho Tham dự viên Buổi gặp gỡ các Phong trào Giáo dân Thế giới (28/10/2014): AAS 106 (2014), 853.
[189] Văn thư về Tình huynh đệ Nhân bản cho Nền hòa bình Thế giới và Chung sống, Abu Dhabi (4/2/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 4-5/2/2019, tr. 6.
[190] RENÉ VOILLAUME, Frères de tous [tạm dịch: Anh em hết thảy mọi người], Cerf biên soạn, Paris, 1968, 12-13.
[191] Diễn văn Video dành cho Hội nghị TED tại Vancouver (26/4/2017): Tờ Quan sát viên, 27/4/2017, tr. 7.
[192] Yết kiến chung (18/2/2015): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 19/2/2015, tr. 8.
[193] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 274: AAS 105 (2013), 1130.
[194] Nt, 279: AAS 105 (2013), 1132.
[195] Sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế giới 2019 (8/12/2018), 5: Tờ Quan sát viên Rô-ma, 19/12/2018, tr. 8.
[196] Gặp gỡ các Nhà lãnh đạo Chính trị, Kinh tế và Văn hóa Bra-zil, Rio de Janeiro, Bra-zil (27/7/2013): AAS 105 (2013), 683-684.
[197] Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Querida Amazonia (2/2/2020), 108.
[198] Dựa trên bộ phim Pope Francis: A Man of His Word [Giáo hoàng Phan-xi-cô: Người Giữ lời], của tác giả Wim Wenders (2018).
[199] Thông điệp nhân ngày Truyền thông Thế giới 2014 (24/1/2014): AAS 106 (2014), 113.
[200] Hội Đồng Giám Mục Úc, Ủy ban Công lý-Sứ mệnh-Phục vụ Xã hội, Making It Real: Genuine Human Encounter in Our Digital World [tạm dịch: Biến thành hiện thực: Cuộc gặp gỡ Nhân vị Đích thật trong Thế giới Kỹ thuật số] (tháng 11/2019).
[201] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 123: AAS 107 (2015), 896.
[202] Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Veritatis Splendor (6/8/1993), 96: AAS 85 (1993), 1209.
[203] Là Ki-tô hữu, chúng ta cũng tin rằng Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn thánh, hầu giúp chúng ta hành động như anh chị em với nhau.
[204] VINICIUS DE MORAES, Samba da Benção [tạm dịch: Ơn lành của Vũ điệu Sam-ba], từ cuốn băng Um encontro no Au bon Gourmet [tạm dịch: Hội ngộ tại Au bon Gourmet], Rio de Janeiro (2/8/1962).
[205] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 237: AAS 105 (2013), 1116.
[206] Nt, 236: AAS 105 (2013), 1115.
[207] Nt, 218: AAS 105 (2013), 1110.
[208] Tông huấn Amoris Laetitia (19/3/2016), 100: AAS 108 (2016), 351.
[209] Sứ điệp Hòa Bình Thế giới năm 2020 (8/12/2019), 2: Tờ Quan sát viên Rô-ma, 13/12/2019, tr. 8.
[210] Hội đồng Giám mục Con-gô, Sứ điệp gửi Dân Chúa và Tất cả những ai thiện chí (9/5/2018).
[211] Diễn văn tại Cuộc Gặp gỡ Hòa giải Quốc gia, Villavicencio, Cô-lôm-bi-a (8/9/2017): AAS 109 (2017), 1063-1064, 1066.
[212] Sứ điệp Hòa Bình Thế giới năm 2020 (8/12/2019), 3: Tờ Quan sát viên Rô-ma, 13/12/2019, tr. 8.
[213] Hội đồng Giám mục Nam Phi, Thư Mục vụ về Lòng cậy trông Ki-tô giáo giữa Cuộc khủng hoảng Đương thời (5/1986).
[214] Hội đồng Giám mục Hàn Quốc, Giáo hội Công giáo Hàn Quốc Kêu gọi Tái thiết Hoà bình trên Bán đảo Triều Tiên (15/8/2017).
[215] Gặp gỡ Các Nhà Lãnh đạo Chính trị, Kinh tế và Dân sự, Quito, Ê-cu-a-dor (7/7/2015): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 9/7/2015, tr. 9.
[216] Gặp gỡ Giới trẻ Liên tôn, Maputo, Mô-zăm-bic (5/9/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 6/9/2019, tr. 7.
[217] Bài giảng, Cartagena de Indias, Cô-lôm-bi-a (10/9/2017): AAS 109 (2017), 1086.
[218] Gặp gỡ Nhà Cầm quyền, Ngoại giao đoàn và Đại diện Xã hội Dân sự, Bogotá, Cô-lôm-bi-a (7/9/2017): AAS 109 (2017), 1029.
[219] Hội đồng Giám mục Cô-lôm-bi-a, Vì lợi ích Quê hương Cô-lôm-bi-a: Đối thoại, Hoà giải và Phát triển toàn vẹn (26/11/2019), 4.
[220] Gặp gỡ Nhà Cầm quyền, Ngoại giao đoàn và Đại diện Xã hội Dân sự, Maputo, Mô-zăm-bic (5/9/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 6/9/2019, tr. 6.
[221] Hội nghị Khoáng đại lần thứ V của Hội đồng Giám mục Nam Mỹ và Ca-ri-bê, Văn kiện Aparecida (29/6/2007), 398.
[222] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 59: AAS 105 (2013), 1044.
[223] Thông điệp Centesimus Annus (1/5/1991), 14: AAS 83 (1991), 810.
[224] Bài giảng trong Thánh lễ cầu cho Các Dân tộc Thăng tiến, Maputo, Mô-zăm-bic (6/9/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 7/9/2019, tr. 8.
[225] Nghi lễ Đón tiếp, Colombo, Sri Lanka (13/1/2015): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 14/1/2015, tr. 7.
[226] Gặp gỡ Các Trẻ em “Trung tâm Bê-ta-ni-a” và Đại diện Trung tâm Bác ái của Al-ba-ni-a, Tirana, Al-ba-ni-a (21/9/2014): Insegnamenti (Giáo huấn) II, 2 (2014), 288.
[227] Sứ điệp Video dành cho Hội nghị TED tại Vancouver (26/4/2017): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 27/4/2017, tr. 7.
[228] Đức Giáo hoàng Pi-ô XI, Thông điệp Quadragesimo Anno (15/5/1931): AAS 23 (1931), 213.
[229] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 228: AAS 105 (2013), 1113.
[230] Gặp gỡ Nhà Cầm quyền, Ngoại giao đoàn và Đại diện Xã hội Dân sự, Riga, Lát-vi-a (24/9/2018): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 24-25/9/2018, tr. 7.
[231] Nghi lễ Đón tiếp, Tel Aviv, Is-ra-el (25/5/2014): Insegnamenti (Giáo huấn) II, 1 (2014), 604.
[232] Viếng Đài tưởng niệm Yad Vashem, Giê-ru-sa-lem (26/5/2014): AAS 106 (2014), 228.
[233] Diễn văn tại Đài tưởng niệm Hòa bình, Hi-rô-shi-ma, Nhật Bản (24/11/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 25-26/11/2019, tr. 8.
[234] Sứ điệp Hòa bình Thế giới năm 2020 (8/12/2019), 2: Tờ Quan sát viên Rô-ma, 13/12/2019, tr. 8.
[235] Hội đồng Giám mục Croa-ti-a, Thư chung nhân dịp Kỷ niệm 50 năm Thế chiến Thứ hai Kết thúc (1/5/1995).
[236] Bài giảng, Amman, Jor-đan (24/5/2014): Insegnamenti (Giáo huấn) II, 1 (2014), 593.
[237] x. Sứ điệp Hòa bình Thế giới năm 2020 (8/12/2019), 1: Tờ Quan sát viên Rô-ma, 13/12/2019, tr. 8.
[238] Diễn văn trước Các Thành viên Đại Hội đồng Liên hiệp quốc, New York (25/9/2015): AAS 107 (2015), 1041-1042.
[239] số 2309.
[240] Nt.
[241] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 104: AAS 107 (2015), 888.
[242] Thánh Âu-gus-ti-nô, người đã đưa ra ý niệm “cuộc chiến chính nghĩa” mà chúng ta không còn duy trì thời nay nữa, cũng nói rằng “Duy trì chiến tranh bằng ngôn từ thì vinh quang cao quý hơn là sát hại con người bằng gươm giáo, cũng như duy trì hoặc mang lại hòa bình bằng hòa bình, chứ không phải chiến tranh” (Epistola [Thư] 229, 2: PL 33, 1020).
[243] Thông điệp Pacem in Terris (11/4/1963): AAS 55 (1963), 291.
[244] Sứ điệp gửi Hội nghị Liên Hiệp Quốc nhằm Thương thảo Tìm ra Phương thế Trói buộc Hợp pháp để Ngăn cấm Vũ khí Hạt nhân (23/3/2017): AAS 109 (2017), 394-396.
[245] x. Thánh Giáo hoàng Phao-lô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26/3/1967): AAS 59 (1967), 282.
[246] x. Thông điệp Evangelium Vitae (25/3/1995), 56: AAS 87 (1995), 463-464.
[247] Diễn văn nhân dịp Kỷ niệm 25 năm Công bố Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo (11/10/2017): AAS 109 (2017), 1196.
[248] x. Bộ Giáo lý Đức tin, Thư gửi Các Giám mục đề cập đến việc Cải biên số 2267 Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo nói về Án tử hình (1/8/2018): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 3/8/2018, tr. 8.
[249] Diễn văn dành cho các Đại biểu Hiệp hội Luật hình sự Quốc tế (23/10/2014): AAS 106 (2014), 840.
[250] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Hợp tuyển Giáo huấn Xã hội của Giáo hội, 402.
[251] Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Diễn văn dành cho Hiệp hội Thẩm phán Quốc gia (31/3/2000), 4: AAS 92 (2000), 633.
[252] Divinae Institutiones (Linh Viện) VI, 20, 17: PL 6, 708.
[253] Epistola (Thư) 97 (Lời giải đáp cho nhóm người Bul-ga), 25: PL 119, 991. “ipsi (Christo) non solum innoxios quosque, verum etiam et noxios a mortis exitio satagite cunctos eruere…” (tạm dịch: “Người Ki-tô hữu không chỉ vô hại, mà còn bị ám chỉ liên quan đến việc tiêu diệt những ai nỗ lực giải cứu...”)
[254] Epistola ad Marcellinum (Thư gửi Thẩm phán Mar-sê-li-nô) 133, 1.2: PL 33, 509.
[255] Diễn văn dành cho các Đại biểu Hiệp hội Luật hình sự Quốc tế (23/10/2014): AAS 106 (2014), 840-841.
[256] Nt, 842.
[257] Nt.
[258] Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Evangelium Vitae (25/3/1995), 9: AAS 87 (1995), 411.
[259] Hội đồng Giám mục Ấn độ, Giáo hội tại Ấn Độ Đối ứng với Những Thách thức Hiện nay (9/3/2016).
[260] Bài giảng lễ tại Đền Thánh Mát-ta (17/5/2020).
[261] Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 19: AAS 101 (2009), 655.
[262] Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Centesimus Annus (1/5/1991), 44: AAS 83 (1991), 849.
[263] Diễn văn dành cho Các nhà Lãnh đạo Tôn giáo và Tín phái Ki-tô giáo khác, Tirana, Al-ba-ni-a (21/9/2014): Insegnamenti (Giáo huấn) II, 2 (2014), 277.
[264] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Chung sống, Abu Dhabi (4/2/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 4-5/2/2019, tr. 6.
[265] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 256: AAS 105 (2013), 1123.
[266] Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Deus Caritas Est (25/12/2005), 28: AAS 98 (2006), 240.
[267] “Con người là một sinh vật mang tính chính trị”, ARISTOTLE, Politics (Chính trị), 1253a 1-3.
[268] Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 11: AAS 101 (2009), 648.
[269] Diễn văn dành cho Cộng đoàn Công Giáo, Rakovski, Bul-ga-ri-a (6/5/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 8/5/2019, tr. 9.
[270] Bài giảng, San-tia-gô đờ Cu-ba [Santiago de Cuba] (22/9/2015): AAS 107 (2015), 1005.
[271] Công Đồng Va-ti-can II, Tuyên ngôn về Mối Liên hệ của Giáo Hội với các Tôn giáo ngoài Ki-tô giáo, Nostra Aetate, 2.
[272] Buổi Cầu nguyện Đại kết, Riga, Lát-vi-a (24/9/2018): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 24-25/9/2018, tr. 8.
[273] Lectio Divina, Học viện Giáo hoàng La-tê-ra-nô, Rô-ma (26/3/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 27/3/2019, tr. 10.
[274] Thánh Giáo hoàng Phao-lô VI, Thông điệp Ecclesiam Suam (6/8/1964): AAS 56 (1964), 650.
[275] Diễn văn dành cho Nhà Cầm quyền Dân sự, Bêth-lê-hem, Pa-les-tin (25/5/2014): Insegnamenti (Giáo huấn) II, 1 (2014), 597.
[276] Enarrationes in Psalmos (Lối trình bày trong Thánh vịnh), 130, 6: PL 37, 1707.
[277] Tuyên bố chung của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô và Thượng phụ Đại kết, Giê-ru-sa-lem (25/5/2014), 5: Tờ Quan sát viên Rô-ma, 26-27/5/2014, tr. 6.
[278] Dựa trên bộ phim Pope Francis: A Man of His Word [tạm dịch: Giáo Hoàng Phan-xi-cô: Người giữ Lời], của tác giả Wim Wenders (2018).
[279] Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Querida Amazonia (2/2/2020), 106.
[280] Bài giảng, Cô-lom-bô, Sri Lanka (14/1/2015): AAS 107 (2015), 139.
[281] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Chung sống, Abu Dhabi (4/2/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 4-5/2/2019, tr. 7.
[282] Diễn văn dành cho Nhà Cầm quyền Dân sự, Sarajevo, Bosnia-Herzegovina (6/6/2015): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 7/6/2015, tr. 7.
[283] Diễn văn tại Hội nghị Quốc tế về Hòa bình do Cộng đoàn Sant’Egidio tổ chức (30/9/2013): Insegnamenti (Giáo huấn) I, 1 (2013), 301-302.
[284] Văn kiện Tình Huynh đệ Nhân bản vì Hòa bình Thế giới và Chung sống, Abu Dhabi (4/2/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 4-5/2/2019, tr. 6.
[285] Nt.
[286] x. CHARLES DE FOUCAULD (Sác-đờ-Fucô), Méditation sur le Notre Père [tạm dịch: Suy niệm về Kinh Lạy Cha] (23/1/1897).
[287] Letter to Henry de Castries [tạm dịch: Thư gửi Hen-ri đờ Cas-tri] (29/11/1901).
[288] Letter to Madame de Bondy [tạm dịch: Thư gửi Quý bà Gia tộc Bôn-đi] (7/1/1902). Thánh Giáo hoàng Phao-lô VI dùng những lời lẻ này tán dương tinh thần dấn thân của thánh Sác-đờ-Fucô: Thông điệp Populorum Progressio (26/3/1967): AAS 59 (1967), 263.